Banner trang chủ

Tìm phương án bảo vệ môi trường làng nghề

08/11/2023

    Hiện nay, các làng nghề đã và đang đem lại những lợi ích kinh tế nhất định, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập, đời sống cho nông dân. Theo Báo cáo Hiện trạng Môi trường quốc gia được Bộ TN&MT công bố tháng 11/2021, cả nước hiện có 4.575 làng nghề, trong đó có 1.951 làng nghề được công nhận. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho BVMT làng nghề còn hạn chế. Luật BVMT năm 2020 quy định trách nhiệm lập và triển khai thực hiện phương án BVMT làng nghề thuộc UBND cấp xã nơi có làng nghề. Các cơ chế huy động nguồn lực trong xã hội cho xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề việc triển khai còn nhiều hạn chế nên nguồn lực huy động chưa đáp ứng được nhu cầu. Ngoài ra, thiếu nguồn lực đầu tư là thách thức lớn trong bối cảnh các vấn đề môi trường làng nghề ngày càng gia tăng, tích tụ ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Mặt khác, còn thiếu các cơ chế huy động nguồn lực tại chỗ cho công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề. Để có được nguồn lực tài chính ổn đỉnh, cần sớm ban hành cơ chế, chính sách thúc đẩy công tác huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề nhằm giải quyết và xử lý các vấn đề môi trường làng nghề.

    Nguồn lực tài chính trong xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề

    Nguồn lực tài chính để xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề bao gồm nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước (ngân sách địa phương, ngân sách Trung ương) và nguồn lực tài chính ngoài ngân sách nhà nước (vốn từ các doanh nghiệp, vốn từ cộng đồng…).

    Nguồn lực tài chính là một yếu tố đầu vào quan trọng để đạt được yêu cầu về BVMT nói chung và công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề nói riêng.

    Nguồn lực tài chính được huy động sẽ hình thành nguồn vốn đầu tư cho công tác BVMT, cho phép việc đầu tư, mua sắm trang thiết bị, máy móc… phục vụ, hỗ trợ cho công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề.

    Nguồn lực tài chính mà chúng ta huy động được cho công tác BVMT làng nghề sẽ tạo điều kiện tiền đề, giúp nâng cao năng lực và trình độ khoa học công nghệ, để ứng dụng được công nghệ vào hoạt động sản xuất và đời sống, đáp ứng các yêu cầu về BVMT, đảm bảo mục tiêu duy trì phát triển kinh tế nhưng không gây hại quá mức đến môi trường.

    Nguồn lực tài chính huy động được từ các nguồn ngoài ngân sách có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bổ sung, hỗ trợ cho nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước các cấp.

    Nguồn lực tài chính hữu hạn vì vậy, để đáp ứng tốt cho hoạt động đầu tư, cần nâng cao hiệu quả sử dụng, đáp ứng các yêu cầu về BVMT làng nghề cần thiết phải duy trì một lực lượng tài chính ổn định và mang tính lâu dài, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

    Như vậy, có thể thấy nguồn lực tài chính đóng vai trò quan trọng đối với công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề phát triển kinh tế -  xã hội, cả về chất và lượng. Đây là điều kiện cần của công tác BVMT làng nghề. Điều kiện đủ là các nguồn lực tài chính này phải được sừ dụng có hiệu quả, tiết kiệm

    Hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề

    Thực tế hiện nay, nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho BVMT tại các làng nghề nói chung còn hạn chế. Các cơ chế huy động nguồn lực trong xã hội cho BVMT làng nghề đã có nhưng việc triển khai còn nhiều hạn chế nên nguồn lực huy động chưa đáp ứng được nhu cầu. Để tháo gỡ khó khăn và huy động hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho công tác BVMT tại các làng nghề, đặc biệt là công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề, cần đẩy mạnh thực hiện xây dựng, hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực tài chính, như sau:

    (1) Nguồn lực từ ngân sách:

    Cần xây dựng khung chính sách thuế, phí làm cơ sở để hoàn thiện chính sách BVMT theo hướng: mở rộng phạm vi đối tượng chịu thuế, phí BVMT để bao quát hết các hàng hoá nguy hại đối với môi trường; thu hẹp mức thuế suất tuyệt đối, mở rộng phạm vi áp dụng thuế suất tương đối và phương pháp thuế suất hỗn hợp nhằm khắc phục được hạn chế của mức thuế suất đối với thị trường, giá cả và lạm phát…, góp phần hạn chế gian lận thuế. Đồng thời, chính sách thuế TTĐB,  với các phương tiện giao thông có dung tích xi lanh lớn duy trì mức thuế suất cao đối để góp phần giảm ô nhiễm không khí và tăng thu NSNN, để kích thích sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu sạch, hạn chế sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu hóa thạch cần điều chỉnh theo hướng giảm mức thuế suất thấp hơn nữa đối với nhóm nhiên liệu sạch.

    Hoàn thiện cơ chế, chính sách trái phiếu xanh do Chính phủ, chính quyền địa phương phát hành theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu để huy động nguồn vốn cho các hoạt động BVMT; ưu tiên nguồn lực đầu tư và khuyến khích chính quyền địa phương, các tổ chức, đơn vị và cá nhân đầu tư bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, phát huy lợi thế tự nhiên thông qua các cơ chế trái phiếu xanh, mua sắm xanh, tín chỉ carbon rừng, chi trả dịch vụ hệ sinh thái, cơ chế hoán đổi nợ cho đầu tư vào vốn tự nhiên và các công cụ kinh tế, tài chính khác theo quy định.

    Tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách thu tiền sử dụng đất, bán, cho thuê tài sản nhà nước… sử dụng đầy đủ và có hiệu quả hơn các công cụ thị trường, tăng cường tính công khai, minh bạch trong định giá, đấu giá quyền sử dụng đất, bán, cho thuê, thuê mua nhà thuộc sở hữu nhà nước góp phần chống gian lận, tránh thất thoát, đảm bảo hiệu quả nguồn thu ngân sách nhà nước.

    Cơ chế phân cấp, phân chia nguồn thu giữa ngân sách Trung ương  và ngân sách địa phương: Đối với các khoản thu phần lớn dựa vào hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên (đất đai, quyền khai thác tài nguyên nước, chi trả dịch vụ môi trường rừng), việc quy định các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100% áp dụng chung cho các địa phương trong khi có sự không đồng đều trong phân bổ tài nguyên dẫn đến những bất cập. Do đó, để khắc phục tình trạng này, với mục tiêu tạo sự tương thích, công bằng giữa các địa phương có thể căn cứ vào tiêu chí phân bổ tài nguyên để điều chỉnh chính sách theo hướng phân nhóm địa phương tương đồng, trên cơ sở đó, phân nhóm nguồn thu ngân sách địa phương. Ngoài ra, bổ sung cơ chế kiểm soát quyền lực trong thực hiện chính sách phân chia tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương hoặc giữa các cấp ngân sách địa phương đối với một số khoản thu để hạn chế tiêu cực trong quá trình thực hiện.

    (2) Nguồn lực từ các doanh nghiệp, tổ chức tài chính

    Hoàn thiện khung pháp lý khuyến khích, kích thích các doanh nghiệp đầu tư cho công tác BVMT thông qua sử dụng các công cụ tài chính như thuế, lãi suất, giá cả… hoặc công cụ tài chính khác (phát hành trái phiếu, vay nợ từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước…). Cần mở rộng phạm vi đối tượng ưu đãi thuế nhập khẩu đối với các phương tiện, vật liệu… phục vụ trực tiếp xây dựng các công trình BVMT, đặc biệt là công trình tại các làng nghề mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được tiêu chuẩn trong xây dựng công trình BVMT, nhất là trong lĩnh vực giao thông vận tải và phát triển đô thị sinh thái không thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu.

    Tăng mức ưu đãi thuế và mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng ưu đãi thuế, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN, ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… đối với các doanh nghiệp thực hiện các dự án xây dựng công trình BVMT làng nghề, dự án phát triển du lịch sinh thái làng nghề,… để khuyến khích các DN đầu tư vào lĩnh vực BVMT. Mặt khác, sử dụng đầy đủ các công cụ kinh tế, công cụ kỹ thuật khác để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động dịch vụ môi trường, tăng tính cạnh tranh thị trường để nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực dịch vụ môi trường tại các làng nghề hiện nay.

    Đẩy mạnh phát triển thị trường vốn và hoàn thiện khung pháp lý về hỗ trợ tài chính của Nhà nước thông qua hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và các công cụ nợ của doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực BVMT huy động vốn thông qua thị trường mở đầu tư cho công tác BVMT làng nghề. Xem xét việc mở rộng đối tượng được hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp đầu tư các dự án, công trình xanh khu dân cư, sản xuất vật liệu thân thiện với môi trường… Bênh cạnh đó, xây dựng, và ban hành khung chính sách về tài chính, sản phẩm tài chính cho các DN hoạt động liên quan lĩnh vực BVMT làng nghề hoạt động trên thị trường vốn mở: thực hiện từng bước đối với lĩnh vực ưu tiên BVMT về phát hành trái phiếu doanh nghiệp…

Tác phẩm “Áp dụng mô hình KTTH trong nông nghiệp trên cánh đồng cà rốt” - Tác giả Đinh Hải Ngọc (Hà Nội) - Giải Nhì Cuộc thi ảnh

Kinh tế tuần hoàn do Tạp chí Môi trường tổ chức

    Đối với các DN mở động đầu tư trong lĩnh vực BVMT thông qua việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức tài chính, tín dụng cung cấp các khoản vốn cho vay để hỗ trợ DN: hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực hoạt động tài chính – tín dụng của các ngân hàng, khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia các Chương trình liên quan về BVMT làng nghề để cung cấp các khoản vay hỗ trợ DN, nhất là DN nhỏ và vừa thực hiện các dự án đầu tư trong lĩnh vực BVMT, nhất là đối với lĩnh vực BVMT làng nghề. Đồng thời, hoàn thiện khung cơ chế quy định về tín dụng xanh, ngân hàng xanh, tài chính xanh nhằm thúc đẩy vốn tín dụng ngân hàng vào các ngành sản xuất và tiêu dùng ít carbon… xây dựng, ban hành hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

    Ngoài ra, ban hành các chính sách đẩy mạnh hợp tác quốc tế của các doanh nghiệp tại làng nghề,… với các quỹ tài chính nước ngoài nhằm tiếp cận các gói tín dụng dụng đầu tư mới hoặc thay thế dây chuyền công nghệ lạc hậu bằng dây chuyền công nghệ thân thiện với môi trường.

    (3) Nguồn lực tài chính từ cộng đồng

    Xây dựng, ban hành một số chính sách mới nhằm huy động nguồn lực tài chính từ cộng đồng cho công tác BVMT làng nghề trên địa bàn các tỉnh, thành phố trong cả nước, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, của người dân vào công tác thực hiện phương án BVMT làng nghề ở Việt Nam: khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật để người dân, cộng đồng triển khai và mở rộng quy mô các mô hình sản xuất tiết kiệm, an toàn, văn minh, mang đậm bản sắc dân tộc, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên; phát triển mô hình đô thị sinh thái,… mô hình phân loại rác thải tại nguồn theo phương pháp giảm thiểu - tái chế - tái sử dụng (mô hình 3K), cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng; vận động và khuyến khích sử dụng NLTC của cộng đồng tham gia vào lĩnh vực quản lý rủi ro thiên tai, trồng rừng và quản lý rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, …

    Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác BVMT, tham gia thực hiện phương án BVMT làng nghề; đa dạng hóa các hình thức của hoạt động tuyên truyền tạo ra phong trào tự vận động phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn: thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các biện pháp thi đua, khen thưởng… Phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội trong việc hướng dẫn, tư vấn về BVMT và phối hợp giải quyết hậu quả ô nhiễm môi trường; thành lập các quỹ bảo vệ môi trường từ đóng góp của người dân, hội viên và các nguồn hợp pháp khác; vận động hội viên, cộng đồng và người dân thực hiện tốt chính sách pháp luật về BVMT góp phần nâng cao nhận thức, lối sống thân thiện với môi trường. động viên, khích lệ hội viên, người dân địa phương tham gia xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, thu gom, xử lý chất thải, cải tạo và phục hồi môi trường; hướng dẫn hội viên, người dân áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến và sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường.

    Bên cạnh đó, ưu tiên, thúc đẩy hoàn thành các công trình, dự án BVMT làng nghề mang tính cộng đồng, đặc biệt trong việc khắc phục, cải tạo các điểm “nóng” về môi trường để người dân ý thức được vai trò tham gia, đóng góp của mình vào công tác BVMT của địa phương.

    (4) Nguồn vốn tài trợ/vốn vay của các nước, các tổ chức quốc tế

    Khuyến khích và hỗ trợ các cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về BVMT làng nghề, vận động và tranh thủ sự ủng hộ đối với công tác BVMT làng nghề của các quỹ tài chính, tổ chức quốc tế để tiếp cận các khoản tài chính hỗ trợ kỹ thuật trong xây dựng, thực hiện công tác BVMT làng nghề tại Việt Nam.

    Chú trọng chính sách ngoại giao kinh tế nhằm đẩy mạnh hoạt động ngoại giao kinh tế thân thiện môi trường ở cấp Chính phủ, Bộ/ngành... với các hình thức đối thoại, hợp tác đa dạng để chủ động kiến tạo các chương trình hỗ trợ quốc tế liên quan đến lĩnh vực BVMT làng nghề, hỗ trợ pháp lý trong huy động và triển khai các chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và các đối tác lớn.  

    Ngoài ra, đối với chính sách vay nợ trong và ngoài nước, vừa bảo đảm nguồn lực tài chính bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, tăng cường nguồn vốn chi cho đầu tư BVMT, đặc biệt là BVMT tại làng nghề vừa xác định đúng giới hạn an toàn nợ công, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Cần sửa đổi, bổ sung chính sách nợ Chính phủ và sử dụng các công cụ nợ Chính phủ phù hợp với thực tế nợ công của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Bổ sung các tiêu chí đặc thù khác để mở rộng khả năng vay nợ của chính quyền địa phương trên cơ sở nghĩa vụ trả nợ và khả năng trả nợ của từng đơn vị địa phương cấp tỉnh.

    (5) Công khai, minh bạch trong quá trình sử dụng các nguồn lực

    Việc bảo đảm và tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý hành chính là một nội dung hết sức quan trọng, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả công tác huy động, sử dụng các nguồn lực BVMT làng nghề. Ngoài ra, việc công khai, minh bạch trong quá trình sử dụng nguồn lực giảm bớt khoảng cách cũng như mức độ không đồng nhất về cách hiểu do sự chênh lệch thông tin giữa các đối tượng sử dụng.

    Cần công khai, minh bạch trong các nội dung BVMT, đặc biệt là nội dung về huy động nguồn lực thực hiện: công bố công khai chủ trương và kế hoạch, phương án triển khai công tác về BVMT của địa phương; các hoạt động, nguồn vốn đầu tư cho từng hoạt động, nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn, tiến độ thực hiện các hạng mục... để nhân dân tìm hiểu, đóng góp ý kiến và tham gia giám sát; công bố công khai cơ chế huy động sự tham gia đóng góp, kết quả huy động sự tham gia đóng góp cho công tác BVMT để nhân dân giám sát đối với các công trình, dự án đầu tư …phát huy quyền làm chủ của người dân và huy động được sự đóng góp tự nguyện của người dân

    Trong quá trình sử dụng các nguồn lực cần thực hiện tuân thủ yêu cầu công khai theo đúng quy định và hướng dẫn của các cơ quan có thầm quyền để nâng cao kết quả huy động nguồn lực từ cộng đồng cho công tác BVMT tại làng nghề. Thực tiễn cho thấy, nhân tố ảnh hưởng đến sự sẵn lòng tham gia đóng góp của cộng đồng cho xây dựng, thực hiện phương án bảo vệ môi trường làng nghề, việc công khai và minh bạch quá trình sử dụng các nguồn lực sẽ tạo được lòng tin với cộng đồng và có ảnh hưởng không nhỏ đến sự sẵn lòng tham gia đóng góp nguồn lực để thực hiện.

    Mặt khác, để có thể đảm bảo được chất lượng công trình và thực hiện đúng tiến độ xây dựng, các đối tượng tham gia quản lý và thực hiện dự án, công trình BVMT làng nghề phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm kiểm tra, giám sát. Bên cạnh, việc tăng cường giám sát nâng cao chất lượng công tác xây dựng, vấn đề kiểm soát chặt chẽ, thanh toán vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu… cũng là một nhân tố góp phần hạn chế tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư cho công tác BVMT các làng nghề tại địa phương.  Đồng thời, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc trực tiếp kiểm soát các khoản vốn đầu tư, …

    (6) Nâng cao năng lực công tác của đội ngũ cán bộ cơ sở

    Đội ngũ các bộ cơ sở là những người trực tiếp xây dựng kế hoạch, đề ra những biện pháp và trực tiếp tổ chức thực thi các hoạt động huy động nguồn lực tài chính cho BVMT làng nghề, vì vậy nâng cao năng lực mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức huy động nguồn lực tài chính cho công tác BVMT làng nghề. Thực tiễn cho thấy, đa số cán bộ cơ sở còn yếu về trình độ kiến thức chuyên môn, kỹ năng công tác trong lĩnh vực quản lý tài chính và công tác quản lý nhà nước về BVMT tại địa phương. Cần xây dựng, hoàn thiện chính sách hỗ trợ công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ; kỹ năng vận động tuyên truyền; kỹ năng tổ chức… cho tất cả các cán bộ tham gia trực tiếp xây dựng và công tác chỉ đạo thực thi phương án BVMT làng nghề. Cần tổ chức tốt các hoạt động tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức tham quan học hỏi và phổ biến kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác thực hiện BVMT làng nghề ở các địa phương.

Vũ Đăng Tiếp, Phạm Đình

Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT

(Trang thông tin này có sự phối hợp của Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương)

    Tài liệu tham khảo

  1. Luật BVMT năm 2020.
  2. Đoàn Thị Hà (2017), Huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Trung du và Miền núi phía Bắc, Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương.
  3. GS.TS. Đặng Kim Chi (2005), Làng nghề Việt Nam và môi trường, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
  4. TS. Đặng Trung Tú (2020), Nghiên cứu giải pháp phát triển mô hình kinh tế xanh tại các làng nghề thuộc hạ lưu lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình, Đề tài KHCN cấp Quốc gia thuộc chương trình KC.08/16-20, Văn phòng các chương trình trọng điểm, Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2020.
  5. Bộ TN&MT (2021), Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2020.
  6. Chu Thái Thành (2009), “Làng nghề và BVMT làng nghề theo hướng phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản.
  7. Tuấn Lương (2011), Di dời cơ sở sản xuất ô nhiễm ra khỏi làng nghề: nhiều dự án vẫn dậm chân tại chỗ, Báo Hà Nội mới, ngày 15/3/2011.
  8. Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thu Hòa (2005), Tác động xã hội và môi trường của việc phát triển làng nghề, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện kinh tế Việt Nam.
  9. Nguyễn Khắc Hoàn và Lê Thị Kim Liên, Giải pháp khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống ở Thừa Thiên - Huế, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, tập 72B, số 3 năm 2012, trang 149-154.
  10.  Mai Thế Hởn (2003), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Ý kiến của bạn