Banner trang chủ

Thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường

05/12/2023

    Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường (TNTNMT) là vấn đề không mới, nhưng đã, đang và sẽ có nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp đặt ra. Trong quá trình phát triển đất nước, công tác bảo vệ TNTNMT có rất nhiều vấn đề mới phát sinh, bất cập, thậm chí những mâu thuẫn phát sinh giữa các nhà đầu tư, chủ cơ sở sán xuất, kinh doanh, dịch vụ với cộng đồng dân cư khi TNTNMT bị sử dụng sai mục đích, lãng phí, gây ô nhiễm môi trường, vượt ra ngoài khuôn khổ làng xã cũng như nội dung, sự chi phối của hương ước và quy ước. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ TNTNMT chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong xây dựng và thực hiện hương ước gắn với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, thậm chí cần phải có những hương ước, quy ước riêng về lĩnh vực tài nguyên, môi trường.

Phát huy vai trò của hương ước, quy ước trong bảo vệ môi trường nông thôn

Bảo vệ TNTNMT trong quá trình xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư thời gian qua

    Cùng với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trong 25 năm qua, kể từ khi có Chỉ thị của Bộ Chính trị 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII), việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (QCDCCS) trong đó có  xây dựng hương ước, quy ước đã đóng vai trò rất quan trọng trong các thành tích, tạo sự chuyển biến tích cực ở cơ sở, nhất là địa bàn nông thôn, cơ sở xã, phường, thị trấn. Dân chủ xã hội không ngừng được củng cố, mở rộng. Quyền làm chủ của người dân, trong đó có dân chủ trực tiếp, được bảo đảm và phát huy, nhất là có quyền "được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra, được thụ hưởng" trong quá trình đổi mới cũng như những thành tựu đạt được. Đặc biệt, người dân ở thôn, làng, ấp, bản...được trực tiếp bầu ra những người đại diện cho quyền và lợi của mình ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện QCDCCS, trong đó có xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Cùng với các phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, công tác bảo vệ TNTNMT ở cơ sở đạt được nhiều thành tích, ngày càng tạo ra chuyển biến tích cực trong thống nhất nhận thức, hành động của cộng đồng dân cư, của mỗi thành viên gia đình, xã hội về vị trí, vai trò công tác giữ gìn, bảo vệ, tiết kiệm TNTN, BVMT cho thế hệ hôm nay và mai sau. Việc xây dựng hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư đã lồng ghép, đưa vào các nội dung bảo vệ TNTNMT, phê phán, hạn chế, ngăn chặn tình trạng lãng phí, khai thác TNTN trái phép, huỷ hoại môi trường, bảo đảm cuộc sống an lành, văn minh, sạch đẹp của các cộng đồng dân cư trong phạm vi cả nước.

    Tuy nhiên, cho đến nay, rất nhiều vấn đề khó khăn, bất cập, thậm chí là những thách thức trong công tác bảo vệ TNTNMT đang diễn ra trong quá  trình xây dựng, phát triển đất nước nói chung và xây dựng thực hiện hương ước, quy ước khi đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống. Đó là vấn đề quản lý, sử dụng đất đai, TNTN sao cho tiết kiệm, hiệu quả, vừa tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp ăn nên làm ra, phát triển bền vững, bảo đảm quyền, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của người dân, cho hôm nay và cho muôn đời con cháu mai sau. Trong những năm qua, việc có tới 70% đến 80%  các cuộc khiếu kiện đông người vượt cấp kéo dài liên quan đến nhà đất đai; tình trạng khai thác trái phép, vượt giới hạn cho phép TNTN, làm ô nhiễm nguồn nước, không khí, gây sạt lở, cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn, rau màu của người dân, nhưng việc xử lý của các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền không nghiêm minh, thiếu cương quyết, thậm chí cán bộ lãnh đạo còn thông đồng, tiếp tay, cùng nhóm lợi ích với cát tặc, phá hoại, gây lãng phí TNTN...gây phẫn nộ, bức xúc cho nhiều cộng đồng dan cư. Có rất nhiều những luồng ý kiến khác nhau trong quá trình thảo luận, góp ý Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) phần nào phản ánh vấn đề rất khó khăn, phức tạp trong việc quản lý, sử dụng, khai thác, đền bù đất đai bị thu hồi. Việc các nhà máy, công ty, khu công nghiệp, làng nghề, các hộ sản xuất, kinh doanh nằm trong hoặc xen kẽ các khu dân cư gây ô nhiễm môi trường nhưng lại thuộc cấp trên cấp phép, quản lý cũng đang là những vấn đề rất bức xúc của cộng đồng, gây khó khăn trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước. Ngoài ra, các mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích, các cộng đồng dân cư, các địa phương với nhau, các dòng tộc, gia đình, các thành viên gia đình...liên quan đến khai thác, quyền sử dụng TNTN, đất rừng, gây ô nhiễm môi trường ở khu dân cư cũng là vấn đề nan giải, chưa có giải pháp hữu hiệu trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước thời gian qua.

    Tài nguyên thiên nhiên, môi trường là những thứ gắn bó hữu cơ, không thể thiếu với đời sống mỗi con người, mỗi sinh vật và tất cả mọi cộng đồng dân cư. Hiện nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, ngày càng cạn kiệt, bị lãng phí, ô nhiễm, xói mòn, thoái hoá, nhiều thứ đang bị huỷ hoại, cũng có những thứ vĩnh viễn mất đi, không thể thể phục hồi. Vấn đề khai thác, sử dụng lãng phí TNTN, huỷ hoại, ô nhiễm môi trường sống của con người và các sinh vật không chỉ là riêng là nhiệm vụ của cơ sở, của cộng đồng dân cư, nhưng chính cơ sở, cộng đồng dân cư thường gánh chịu. Một trong những khó khăn, bất cập để xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước trong lĩnh vực TNTNMT hiện nay, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, là vấn đề "đầu ra" của chất thải xây dựng và chất thải sinh hoạt. Ở nhiều cơ sở, việc xử lý chất thải sinh hoạt cũng như chất thải xây dựng đã và đang là bài khó khăn, nan giải, chủ yếu là đốt, chôn lấp, vừa không giải quyết triệt để, toàn diện vấn đề môi trường, trong khi diện tích đất ngày càng eo hẹp, đang là vấn đề làm "đau đầu" cho các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp. Khi người dân ở cơ sở có khu tập kết, xử lý chất thải bất bình với chính sách của địa phương, ngăn chặn các xe rác ra vào các khu vực đó thì ngay lập tức ở nhiều nơi trong các thành phố lớn, các khu đô thị trở thành một "bãi rác không lồ", gây bức xúc cho xã hội. Sòng phẳng mà nói, những vấn đề liên quan  đến chất thải rất khó mà có thể thống nhất trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư, thậm chí là nhiều cộng đồng dân cư gần nhau. Trong vấn đề bảo vệ TNTNMT thì việc  tuân thủ, thực thi pháp luật của nhà nước với tôn trọng quyền làm, vai trò tự quyết của cộng đồng dân cư cũng xảy ra mâu thuẫn, bất cập.

    Hương ước, quy ước của làng xã đã được xây dựng, thực hiện cách đây hàng trăm năm. Dù rằng ngày nay được xây dựng và thực hiện trong điều kiện mới, đã có những hướng dẫn cụ thể trong nhiều văn bản khác nhau, nhưng dù thế nào chăng nữa thì hương ước, quy ước vẫn mang tính "lệ làng". Và như vậy, tư tưởng "phép vua thua lệ làng" vẫn còng len lổi, có chỗ tồn tại trong một số người có ảnh hưởng, chi phối trong một số đối tượng trong cộng đồng dân cư, khi lợi ích chính đáng của cộng đồng dân cư bị vi phạm thì tư tưởng này bùng lên, nếu không xử lý khéo sẽ dễ trở thành "điểm nóng". Hơn nữa, trong quan hệ giữa các cộng đồng dân cư, các dòng tộc, họ hàng, các thành viên gia đình vẫn mang nặng về "tình" hơn là "lý". Do đó, trong quá trình xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước nhiều quy định vẫn còn bị chi phối, ảnh hưởng bởi những tư tưởng lạc hậu, co kéo lợi ích, thậm chí có những quy định trái với pháp luật nhà nước hoặc dập khuôn, máy móc, khó thực hiện. Trong thời phong kiến cũng như khi kinh tế thị trường ở nước ta chưa phát triển, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đô thị hoá còn ở giai đoạn đầu thì vấn đề báo vệ TNTNMT trong các cộng đồng dân cư chưa trở thành vấn đề lớn, phức tạp. Việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước khi đó thường ở phạm vi nhỏ hẹp, xung quanh việc giữa gìn vệ trong từng gia đình, vệ sinh đường làng, ngõ xóm, chăn thả gia súc, phòng, chống dịch bệnh... Chất thải sinh hoạt, chất thải xây dựng thường ở dạng tự sản, tự tiêu, khối lượng không lớn, lượng bao nilon, chất thải nhựa, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, nguyên liệu không thân thiện với môi trường chưa nhiều..., cho nên vấn đề này thường chưa vượt xa tầm kiểm soát của cộng đồng. Trong hương ước, quy ước cũng chưa đặt ra quá cụ thể, chi tiết vấn đề BVTNTNMT và cũng chưa phát sinh những vấn đề lớn, phức tạp, vượt xa tầm kiểm soát, quản lý của chính quyền, cộng đồng dân cư. Ngày nay, trong quá trình phát triển đất nước, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đất đai, TNTN ngày càng có giá, đem lại lợi nhuận cao và môi trường cũng vì thế ngày càng bị ô nhiễm hủ hoại. Chính vì vậy, dần dần, hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư không thể bao chứa hết, không chi phối nổi phạm vi, mức độ, tầm ảnh hưởng của của các vấn đề này sinh trong bảo vệ TNTNMT. Trong khi việc công khai, minh bạch thông tin về việc quy hoạch sử dụng TNTN, những ảnh hưởng hệ luỵ đến môi trường không đến với cộng đồng dân cư, đồng thời nhiệm vụ này nhiều khi vượt quá phạm vi, khả năng của cộng đồng dân cư, mà chỉ có thể phản ánh, kiến nghị những cấp có thẩm quyền giải quyết. Đây là vấn đề còn rất nhiều khó khăn, bất cập khi xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư hiện nay.

Một số nhiệm vụ, giải pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện

    Trước hết, cần quán triệt, thực hiện tốt quyền làm chủ của người dân. Từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất đề cao vị trí, vai trò của người dân và suốt đời Người hy sinh phấn đấu cho tự do, hạnh phúc của từng người dân. "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân (...). Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Những điều tối quan trọng và cần thiết mà Chủ tịch nêu trong bài viết "Dân vận" (10/1949) luôn mang tính thời sự và được quán triệt, thực hiện trong quá trình đấu tranh, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định: "Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân...". Việc Chính phủ ban hành Nghị định "Về việc xây dựng hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư" chính là tiếp tục thực hiện những quan điềm Hồ Chí Minh về "Dân" và cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng;

    Thứ hai, trong quá trình xây dựng và thực hiện Quy chế DCCS những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Pháp lệnh 34 của Uỷ ban thường vụ quốc hội cũng như quá trình soạn thảo, thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, đã khẳng định tính ưu việt của việc phát huy dân chủ của cộng đồng dân cư, trong đó đặc biệt là vai trò chủ động, sáng tạo, tích cực, mềm mại, uyển chuyển của cộng đồng dân cư trong việc xây dựng, ban hành, điều chỉnh hương ước, quy ước cho phù hợp với thực tiễn của từng cộng đồng dân cư trong việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước trên tinh thần phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Qua đây nhớ đến câu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở từ lâu rằng: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Qua mấy chục năm phát huy quyền làm chủ của người dân, Đại hội XIII của Đảng đã đúc kết, bổ sung phương châm nói trên thành "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Do vậy, trên cơ sơ phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị định 61 của Chính phủ, các cộng đồng dân cư cần vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm hay, hiệu quả, các điển hình tiên tiến trong quá trình xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở cơ sở mình trong tình hình hiện nay. Nội dung hương ước, quy ước phải thiết thực, phù hợp với đặc thù từng vùng, miền, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chung của cộng đồng dân cư. Không xây dựng hương ước, quy ước theo phong trào, chạy theo thành tích. Đặc biệt quan tâm nội dung, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ TNTNMT trong tình hình hiện nay.

    Thứ ba, việc xây đựng và thực hiện hương ước, quy ước nói chung và nội dung về bảo vệ TNTNMT nói riêng trong bối cảnh Luật Bảo vệ môi trường vừa có hiệu lực, đang từng bước đi vào cuộc sống. Nên chăng, khi xây dựng hương ước, quy ước ở những cơ sở có nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc về bảo vệ TNTNMT cần có hai phần: 1). Những nhiệm vụ, nội dung, vấn đề về TNTNMT trong phạm vi cộng đồng dân cư có quyền quyết định và thực hiện một cách khả thi; 2). Phần thuộc về cấp trên, các ngành chức năng được phân cấp, quản lý những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đã và có nguy cơ sử dụng lãng phí, huỷ hoại TNTN, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư.

    (1) Phạm vi nội dung, nhiệm vụ bảo vệ TNTNMT và trong quyền hạn của cộng đồng dân cư:

    - Hộ gia đình, công dân cư trú tại cộng đồng dân cư có trách nhiệm cử đại diện hộ gia đình tham gia họp bàn, thảo luận, quyết định, được thông tin các nội dung của hương ước, quy ước trong cộng đồng dân cư, trong đó có trách nhiệm trong việc bảo vệ TNTNMT trong phạm vi cơ sở mình ở;  thực hiện nghiêm túc các nội dung của hương ước, quy ước đã được cộng đồng dân cư thông qua, Ủy ban nhân dân cấp xã công nhận. Mọi thành viên trong gia đình, cộng đồng dân cư có trách nhiệm thực hiện những quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định hướng dẫn và nhất là những điều đã ghi trong hương ước, quy ước;

    - Khi phát hiện hành vi vi phạm hương ước, quy ước về bảo vệ TNTNMT, hộ gia đình, công dân cư trú tại cộng đồng dân cư có trách nhiệm nhắc nhở, đề nghị chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả hoặc phản ánh, kiến nghị với Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng ban công tác Mặt trận ở cộng đồng dân cư hoặc người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội của cộng đồng dân cư để xem xét, giải quyết theo quy định;

    - Đại diện cộng đồng dân cư trên địa bàn chịu tác động TNTNMT của dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có quyền yêu cầu chủ dự án đầu tư, cơ sở cung cấp thông tin về bảo vệ TNTNMT thông qua đối thoại trực tiếp hoặc bằng văn bản; tổ chức tìm hiểu thực tế về công tác bảo vệ TNTNMT môi trường của dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp; thu thập, cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin cung cấp.

    - Đại diện cộng đồng dân cư trên địa bàn chịu tác động về, sử dụng lãng phí, huỷ hoại TNTN, môi trường của dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cung cấp kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với dự án đầu tư, cơ sở đó, trừ trường hợp các thông tin này thuộc bí mật nhà nước, bí mật của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Đại diện cộng đồng dân cư có quyền tham gia đánh giá kết quả bảo TNTNMT của dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp; thực hiện biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật;

    - Việc giải quyết "đầu ra" cho chất thải xây dựng và chất thải sinh hoạt phụ thuộc nhiều vào cấp trên trong việc quy hoạch, xây dựng khu xửe lý chất thải cùng như thành lập các tổ, nhóm vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, trong cộng đồng dân cư cần có các cuộc vận động, phong trò sử dụng các nguyên liệu thân thiện với môi trường sẵn có ở nông thôn; hạn chế, chấm dứt dùng túi ly non trong sinh hoạt, trong các chợ làng quê; xử lý chất thải sinh hoạt làm phân vi sinh phục vụ đời sống. Hội phụ nữa ở các thôn, làng, ấp bản là lực lượng nòng cốt làm rất tốt vấn đề này;

    (2) Đối với các cơ quan cấp trên của các chủ đầu tư, khu sản xuất, kinh doanh.

    - Người dân, cộng đồng dân cư có quyền được biết khi cấp trên quyết định, giấy phép đầu tư, diện tích đất sử dụng, ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tham gia kiểm tra, giám sát. Các chủ đầu tư, doanh nghiệp có trách nhiệm công khai, minh bạch giấy phép đẩu tư, diện tích, địa điểm, ngành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thời hạn, công nghệ... để chính quyền cơ sở, cộng đồng dân cư được biết.  Cơ quan quản lý nhà nước về môi trường các cấp có trách nhiệm xây dựng hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý, trả lời phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về bảo TNTNMT.

    - Ở những nơi có những khu chế xuất, có các doanh nghiệp, làng nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cần có hương ước, quy ước riêng về TNTNMT của cộng đồng dân cư có sự tham gia và thông qua có cam kết của các chủ đầu tư, doanh nghiệp, được sự giám sát của các cơ quan chuyên môn, chính quyền xã xác nhận.

    - Trong quá trình xây dựng, di vào sản xuất, kinh doanh, các cơ quan chức năng cần cử đoàn giám sát, kiểm tra, giám sát, trong đó có đại diện chính quyền cấp xã, đại diện của cộng đồng dân cư để thẩm định những hạ mục công trình, bảo đảm đúng giấy phép xây dựng và những yêu cầu của các cơ quan chức năng đối cơ sở sản xuất, kinh doanh;

    - Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nếu để xảy ra tình trạng lãng phí, hủy hoại TNTNMT, đại diẹn cộng đồng dân cư kịp phản ánh với cơ quan quản lý cấp trên và các cơ quan chức năng nhằm không để tình trang vi phạm tiếp tục diễn ra. Tùy theo mức độ vi phạm và tình trạng TNNTMT bị hủy hoại, lãng phí, ô nhiễm thì chủ đầu tư, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ sẽ bị phạt theo quy định, rút giấy phép kinh doanh, thậm chí có thể bị truy tố trước pháp luật.

Tài liệu tham khảo

1. Nghị định số 61/2023/NĐ-CP "Về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư".

1. Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2002) Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

2. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật (2022), Bách khoa thư làng Việt cổ truyền

3.  Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 5

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) Văn hiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

5. Luật BVMT năm 2020;

6.Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 về hướng dẫn chi tiết một số điều  của Luật BVMT năm 2020.

Vũ Ngọc Lan - Phạm Đình

(Trang thông tin này có sự phối hợp của Văn phòng Điều phối NTM Trung ương)

Ý kiến của bạn