Banner trang chủ

Quy định điều kiện tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường

10/04/2015

     Luật BVMT năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 23/6/2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015 thay thế Luật BVMT năm 2005. Theo đó, việc rà soát, chỉnh sửa, bổ sung hoặc thay thế những văn bản quy định chi tiết và thi hành Luật BVMT năm 2005 cũng được triển khai đồng bộ.

     Nghị định số 27/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường (QTMT), có hiệu lực thi hành từ ngày 5/6/2013 nhằm quy định chi tiết Khoản 3, Điều 95 Luật BVMT năm 2005. Nghị định quy định về điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT; hồ sơ và thủ tục cấp, gia hạn, điều chỉnh nội dung, cấp lại, tạm thời đình chỉ hiệu lực, thu hồi và hủy bỏ Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT. Việc thẩm định, chứng nhận tổ chức đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT sẽ được thực hiện căn cứ theo các điều kiện quy định tại Điều 9, Điều 10 Nghị định số 27/2013/NĐ-CP.

     Qua hơn một năm triển khai thực hiện Nghị định số 27/2013/NĐ-CP cho thấy, văn bản đã thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống. Nhìn chung, chất lượng của hoạt động QTMT đã được nâng cao và đi vào nề nếp, bài bản.

     Tuy vậy, để thực hiện quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 về tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật về môi trường, căn cứ quy định của Luật BVMT năm 2014, việc xây dựng Nghị định quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ QTMT căn cứ Điều 126 Luật BVMT năm 2014, thay thế Nghị định số 27/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 đã được Bộ TN&MT tổ chức thực hiện. Ngày 31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 127/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ QTMT (sau đây gọi tắt là Nghị định). Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/2/2015.

     Về cơ bản, Nghị định kế thừa toàn bộ nội dung của Nghị định số 27/2013/NĐ-CP do những nội dung trong Nghị định số 27/2013/NĐ-CP vẫn còn phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan, đặc biệt Khoản 1, Điều 126 Luật BVMT 2014 vẫn giữ nguyên như Khoản 3, Điều 95 Luật BVMT 2005. Vì vậy, cấu trúc và các nội dung quy định của Nghị định cơ bản vẫn không thay đổi so với trước đây, ngoại trừ quy định về "Các hành vi bị cấm” tại Điều 4 Nghị định số 27/2013/NĐ-CP trước đây đã không còn được quy định tại Nghị định số 127/2014/NĐ-CP để đảm bảo tính hợp hiến theo quy định tại Khoản 2, Điều 14 Hiến pháp năm 2013.

     Nghị định này áp dụng đối với các cơ quan quản lý về môi trường, tổ chức hoạt động dịch vụ QTMT trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, tổ chức hoạt động dịch vụ QTMT bao gồm: doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp; các tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ thành lập theo Luật Khoa học và Công nghệ; và các tổ chức sự nghiệp môi trường được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6 /2012 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Các tổ chức sự nghiệp công lập thực hiện hoạt động QTMT do cơ quan quản lý nhà nước giao kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước không chịu sự điều chỉnh của Nghị định này.

 

Hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường góp phần nâng cao chất lượng

quan trắc môi trường, phù hợp với chủ trương xã hội hóa môi trường

 

     Cũng theo Nghị định, các tổ chức khi hoạt động dịch vụ QTMT (bao gồm hoạt động quan trắc tại hiện trường và hoạt động phân tích môi trường) phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT. Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT được cấp cho tổ chức có đủ các điều kiện như: có quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận hoạt động khoa học công nghệ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, trong đó có hoạt động QTMT; có đủ điều kiện về nhân lực, chuyên môn, trang thiết bị và cơ sở vật chất thực hiện hoạt động QTMT. Các điều kiện này được quy định cụ thể tại Điều 8 và Điều 9 của Nghị định.

     Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT có thời hạn hiệu lực là 36 tháng kể từ ngày cấp và có thể được gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn không quá 36 tháng. Bộ TN&MT là cơ quan có thẩm quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh nội dung, cấp lại, tạm thời đình chỉ hiệu lực, thu hồi và hủy bỏ Giấy chứng nhận.

     Nghị định cũng quy định về trình tự và thủ tục cấp, gia hạn, điều chỉnh nội dung, cấp lại, tạm thời đình chỉ, thu hồi và hủy bỏ Giấy chứng nhận kèm theo các loại biểu mẫu phục vụ việc đề nghị chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT.

     Tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ QTMT phải làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT, nộp phí thẩm định điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT, nộp lệ phí trong trường hợp được cấp, gia hạn, điều chỉnh nội dung và cấp lại Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật.

     Nghị định cũng quy định các trường hợp bị tạm thời đình chỉ hiệu lực và thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận. Theo đó, Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT bị tạm thời đình chỉ hiệu lực trong trường hợp: tổ chức tham gia hoạt động QTMT không đúng phạm vi, lĩnh vực được cấp Giấy chứng nhận; tổ chức sử dụng Giấy chứng nhận không đúng mục đích; tổ chức không thực hiện đúng các quy định về chứng nhận; tổ chức không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định kỹ thuật về quy trình, phương pháp QTMT do Bộ TN&MT quy định, không duy trì chương trình bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng trong QTMT. Trường hợp tổ chức bị cấm hoạt động, bị tuyên bố phá sản, bị giải thể, chia, tách hoặc khi tổ chức không còn đáp ứng đủ một trong các điều kiện quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Nghị định; không thực hiện đúng quy định kỹ thuật về QTMT và không thực hiện, duy trì chương trình bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng trong QTMT sẽ bị thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận.

     Với sự ra đời của Nghị định số 27/2013/NĐ-CP trước đây và Nghị định số 127/2014/NĐ-CP hiện tại quy định về điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ QTMT, hoạt động QTMT nói chung và hoạt động dịch vụ QTMT nói riêng đã và đang có những chuyển biến rõ nét; góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng của hoạt động QTMT, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ đắc lực, hiệu quả cho công tác BVMT ở nước ta, phù hợp với chủ trương xã hội hóa dịch vụ QTMT.

 

Nguyễn Văn Thùy - Nguyễn Thị Nguyệt Ánh

Trung tâm Quan trắc Môi trường,

Tổng cục Môi trường

Nguồn: Tạp chí Môi trường, số 3/2015

Ý kiến của bạn