Banner trang chủ

Ðẩy mạnh công tác kiểm soát các lò đốt chất thải rắn y tế tại Việt Nam

09/06/2016

   Hiện nay, tại Việt Nam, một trong những công nghệ đang được áp dụng để xử lý chất thải rắn y tế (CTRYT) là lò đốt chất thải y tế (CTYT) với ưu điểm xử lý đa số các loại chất thải và giảm tối đa thể tích chất thải sau xử lý. Tuy nhiên, nếu chế độ vận hành không đúng và không có hệ thống xử lý khí thải sẽ phát sinh chất độc hại (dioxin, furan) gây ô nhiễm môi trường thứ phát; đồng thời làm tăng chi phí vận hành, bảo dưỡng và giám sát môi trường.

Khí thải từ các lò đốt chất thải rắn y tế phải đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường

   Để kiểm soát nguy cơ gây ô nhiễm môi trường thứ phát từ các lò đốt CTRYT, Bộ TN&MT đã ban hành QCVN 02:2012/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt CTRYT. Theo QCVN 02:2012/BTNMT quy định “Khí thải từ các lò đốt CTRYT phải đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường, trong đó có chỉ tiêu về Dioxin/Furan PCDD/PCDF phải thấp hơn 2,3 ngTEQ/Nm3”. Ngay sau đó, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 31/2013/TT-BYT ngày 15/10/2013 quy định về quan trắc tác động môi trường từ hoạt động khám, chữa bệnh của bệnh viện, trong đó các cơ sở y tế (CSYT) phải thực hiện quan trắc khí thải lò đốt CTRYT theo QCVN 02:2012/BTNMT với tần suất 3tháng/lần và báo cáo cơ quan quản lý theo thẩm quyền.

   Mặt khác, Bộ Y tế cũng đã chủ động xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể xử lý CTYT giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020 đảm bảo 100% các CSYT ở các tuyến từ Trung ương đến địa phương thực hiện xử lý CTYT bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Đề án nêu rõ giải pháp công nghệ trong xử lý CTYT là “Nghiên cứu, lựa chọn công nghệ xử lý CTYT theo định hướng áp dụng công nghệ mới bảo đảm tính thân thiện với môi trường trên cơ sở khối lượng, thành phần của chất thải phát sinh, điều kiện mặt bằng xây dựng, phù hợp với khả năng tài chính của CSYT và đảm bảo quy chuẩn quốc gia về môi trường”. Cụ thể, đối với các thành phố, các khu đô thị lớn, ưu tiên lựa chọn mô hình xử lý tập trung; Các CSYT có khoảng cách gần nhau, có thể lựa chọn mô hình xử lý theo cụm; Các CSYT không có điều kiện vận chuyển CTRYT đến các khu xử lý tập trung hoặc xử lý theo cụm, lựa chọn theo hướng xử lý tại chỗ.

   Để triển khai Đề án, Bộ Y tế đã bố trí kinh phí từ nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường, từ nguồn kinh phí Dự án Hỗ trợ xử lý chất thải bệnh viện vay vốn ưu đãi của Ngân hàng thế giới với tổng kinh phí là 150 triệu USD… để tập trung hỗ trợ đầu tư hệ thống xử lý CTRYT bằng công nghệ không đốt, thân thiện với môi trường cho các bệnh viện công lập trực thuộc Bộ, các bệnh viện công lập thuộc các địa phương có quy mô giường bệnh lớn, nguy cơ phát sinh chất thải nhiều; đồng thời tăng cường năng lực quan trắc môi trường cho các Viện chuyên ngành trực thuộc Bộ Y tế để quan trắc, giám sát môi trường y tế, trong đó có việc giám sát khí thải từ lò đốt CTRYT.

   Hiện nay, lò đốt CTRYT được sử dụng chủ yếu ở các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện. Vì vậy, UBND tỉnh có vai trò chính trong việc kiểm tra, giám sát, đầu tư và định hướng công nghệ mới thân thiện môi trường để thay thế dần các lò đốt không đạt quy chuẩn môi trường. Bộ Y tế đã có các văn bản gửi UBND cấp tỉnh đề nghị rà soát, đánh giá tình trạng hoạt động của các lò đốt CTRYT và xây dựng kế hoạch loại bỏ các lò đốt không đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Chính phủ cũng đã có Công văn chỉ đạo Bộ TN&MT khẩn trương đề xuất biện pháp kiểm soát các lò đốt rác nhập khẩu không đảm bảo yêu cầu, đánh giá các công nghệ xử lý chất thải rắn đang áp dụng và đề xuất giải pháp công nghệ phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

   Trong những năm qua, ngành Y tế đã có rất nhiều cố gắng trong việc quản lý, xử lý CTYT. Tuy vậy, để thực hiện tốt công tác quản lý môi trường nói chung và quản lý CTYT của ngành Y tế nói riêng, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp với sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị có liên quan dưới sự chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Y tế, sự chỉ đạo của Lãnh đạo UBND các địa phương, các Bộ, ngành có liên quan, cùng với việc thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả của các CSYT.

Nguyễn Thanh Hà

Bộ Y tế

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 5/2016)

Ý kiến của bạn