11/11/2025
Ngày 11/11/2025, tại Hà Nội, Bộ NN&MT đã tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Thứ trưởng Bộ NN&MT Võ Văn Hưng chủ trì và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.
Bước chuyển căn bản trong tư duy và cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp
Trình bày Báo cáo kết quả 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn, Bộ NN&MT cho biết, sau 6 năm triển khai, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP đã tạo ra bước chuyển căn bản trong tư duy và cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Từ chỗ liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp (DN) còn mang tính tự phát, thiếu khung pháp lý và ít được kiểm chứng, đến nay, mô hình liên kết đã trở thành phương thức phổ biến, được Nhà nước, DN và hợp tác xã (HTX) đồng thuận thúc đẩy như một giải pháp trọng tâm trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Số liệu báo cáo của 34 tỉnh, Thành phố cho thấy, tính đến tháng 6/2025, cả nước có 2.938 dự án và kế hoạch liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP được phê duyệt, trong đó có 1.968 dự án và 970 kế hoạch liên kết được các địa phương phê duyệt. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 746 dự án, kế hoạch; vùng đồng bằng sông Hồng có 465 liên kết; vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 978 liên kết; vùng Tây Nguyên có 458 dự án, kế hoạch. Thấp nhất là các vùng Đông Nam bộ với160 dự án, kế hoạch và vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 131 dự án, kế hoạch liên kết.
Theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, có 7 hình thức liên kết được phân loại theo hình thức liên kết giữa các công đoạn trong chuỗi từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức tố chức liên kết chuỗi là rất đa dạng và được hình thành dựa trên nhu cầu cụ thể của từng khu vực, từng ngành hàng hoặc từng nhóm chủ thể. Đáng chú ý, trong số các dự án, kế hoạch liên kết, lĩnh vực trồng trọt có nhiều nhất với 1.969 dự án, kế hoạch (chiếm 67%), tiếp đến là chăn nuôi với 695 dự án, kế hoạch (chiếm 23,7%); thủy sản có 72 dự án, kế hoạch (chiếm 2,5%); lâm nghiệp chỉ có 184 dự án, kế hoạch (chiếm 6,3%). Về các bên tham gia và chủ trì liên kết, đến nay, trong tổng số 2.938 dự án, kế hoạch liên kết theo Nghị định đã được phê duyệt, có 2.412 HTX, 538 tổ hợp tác, 1.305 DN và 211.545 hộ nông dân tham gia. Trong số này, có 2.331 dự án, kế hoạch liên kết do các HTX làm chủ trì liên kết và 607 dự án, kế hoạch liên kết do DN làm chủ trì liên kết.

Thứ trưởng Bộ NN&MT Võ Văn Hưng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
Không chỉ tạo ra các mô hình điển hình, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP còn góp phần hình thành văn hóa hợp tác mới trong nông nghiệp Việt Nam. Tại nhiều địa phương, nông dân đã chủ động liên kết, sản xuất theo đơn đặt hàng của DN, thay vì tự sản xuất và phụ thuộc vào thương lái như trước. Các HTX ngày càng thể hiện vai trò là trung gian tổ chức, vừa đại diện lợi ích của nông dân, vừa là đối tác tin cậy của DN. Đáng chú ý, nhờ cơ chế hỗ trợ từ Nghị định, nhiều HTX được đầu tư hạ tầng, kho bảo quản, máy sấy, hệ thống truy xuất và được đào tạo nâng cao năng lực quản lý. Ngoài ra, nhiều địa phương đã hình thành vùng nguyên liệu lớn, gắn sản xuất với truy xuất nguồn gốc, cấp mã vùng trồng, tạo điều kiện để nông sản tham gia thị trường xuất khẩu chính ngạch; việc kết hợp giữa chính sách liên kết và chương trình phát triển OCOP, vùng nguyên liệu với các đề án chuyên ngành ngày càng được đẩy mạnh. Nhờ sự đồng bộ này, nhiều chuỗi giá trị nông sản đã được hoàn thiện cả về quy mô sản xuất, tiêu chuẩn kỹ thuật, thương hiệu địa phương, góp phần vào mục tiêu chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng giá trị và bền vững.
Tác động của chính sách liên kết
Cũng theo ông Lê Đức Thịnh, những kết quả đạt được từ việc triển khai Nghị định không chỉ mang tính định lượng, mà còn có ý nghĩa sâu sắc về chất lượng và thể chế phát triển. Trước hết, chính sách đã góp phần thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị nông sản chủ lực ở cấp quốc gia cũng như địa phương. Một số ngành hàng chủ lực như lúa gạo, cà phê, trái cây, thủy sản, chăn nuôi, lâm sản… đều có bước phát triển rõ nét về quy mô vùng nguyên liệu và tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất, giúp giảm sự phụ thuộc vào thương lái, mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là vào các nước có yêu cầu khắt khe như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ.
Về mặt kinh tế, nông dân tham gia các mô hình liên kết được hưởng lợi trực tiếp thông qua tăng thu nhập từ 10 - 20% so với sản xuất đơn lẻ, nhờ giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất, đảm bảo đầu ra ổn định và có hợp đồng bao tiêu rõ ràng. Đồng thời, các DN cũng nâng cao hiệu quả sản xuất, kiểm soát chất lượng nguyên liệu, giảm rủi ro thị trường và tăng uy tín thương hiệu. Chính quyền địa phương có thêm công cụ để quản lý vùng sản xuất, truy xuất nguồn gốc và hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp địa bàn.
Về mặt xã hội, Nghị định đã tạo dựng được niềm tin và cơ chế phối hợp thực chất giữa DN - HTX - nông dân, vốn là khâu yếu nhất trong mô hình phát triển nông nghiệp của Việt Nam trước đây. Khi các bên cùng chia sẻ thông tin và lợi ích, vai trò của HTX trở nên rõ ràng hơn, không còn là hình thức trung gian hành chính mà trở thành tác nhân kinh tế thực sự trong chuỗi giá trị. Mô hình liên kết cũng góp phần giảm thiểu rủi ro trong tiêu thụ nông sản, hạn chế tình trạng “giải cứu nông sản”.
Ở góc độ quản lý nhà nước, chính sách này đã tạo điều kiện để các cơ quan quản lý thực hiện chuyển đổi từ tư duy điều hành hành chính sang điều phối theo chuỗi giá trị, tức là không can thiệp vào hoạt động sản xuất cụ thể, mà tập trung kiến tạo môi trường và cơ chế khuyến khích hợp tác tự nguyện, bình đẳng giữa các bên. Đây là một thay đổi có tính chất thể chế, thể hiện bước tiến quan trọng trong quản lý nông nghiệp của Việt Nam.
Cần một khung chính sách mới linh hoạt, ổn định và đồng bộ
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế sau: (i) Tính bền vững của liên kết chưa cao, ở nhiều nơi, mô hình liên kết vẫn dừng lại ở hình thức hợp đồng mua - bán sản phẩm, thiếu cam kết dài hạn và cơ chế ràng buộc về đầu tư, kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng. Khi giá thị trường biến động, liên kết dễ đứt gãy, phản ánh tư duy hợp tác vẫn chưa thực sự thấm sâu, còn mang nặng tính ngắn hạn; (ii) Quy trình thủ tục hỗ trợ còn phức tạp và hành chính hóa. Nghị định yêu cầu các chủ thể liên kết phải lập “dự án liên kết”, trình thẩm định, phê duyệt ở nhiều cấp, khiến DN, HTX đặc biệt là các đơn vị nhỏ khó tiếp cận nguồn hỗ trợ. Mặc dù có chính sách hỗ trợ tư vấn tối đa 300 triệu đồng/dự án, nhưng việc triển khai còn hạn chế, thiếu mạng lưới tư vấn chuyên nghiệp, dẫn đến nhiều mô hình không đủ năng lực lập hồ sơ, bỏ lỡ cơ hội hưởng chính sách; (iii) Thiếu hạ tầng số và công cụ quản lý truy xuất nguồn gốc. Hầu hết các địa phương chưa có nền tảng số dùng chung để quản lý HTX, hợp đồng liên kết, vùng nguyên liệu và phát thải các-bon. Dữ liệu về sản lượng, chất lượng, doanh thu còn phân tán, thiếu chuẩn hóa, khiến việc giám sát hiệu quả chính sách và nhân rộng mô hình còn chậm… khiến liên kết chưa gắn được với xu thế chuyển đổi số và thương mại nông sản minh bạch toàn cầu; (iv) Năng lực tổ chức, quản trị của HTX còn yếu, DN thiếu động lực đầu tư dài hạn. Phần lớn HTX quy mô nhỏ, thiếu vốn, thiếu cán bộ kỹ thuật và kỹ năng quản trị hiện đại. DN lại gặp khó trong việc tiếp cận tín dụng và thiếu cơ chế bảo hiểm rủi ro, nên chưa mặn mà trong đầu tư hạ tầng và vùng nguyên liệu lâu dài. Chính sách hỗ trợ hiện hành chủ yếu tập trung vào giai đoạn đầu tư, thiếu cơ chế “hỗ trợ theo kết quả”, chưa tạo được động lực duy trì liên kết bền vững.
Những hạn chế nêu trên phản ánh thực tế hợp tác và liên kết trong nông nghiệp Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển năng động, nhưng chưa ổn định và đồng bộ. Vì vậy, để liên kết trở thành trụ cột của nền nông nghiệp hiện đại, Việt Nam cần một khung chính sách mới linh hoạt hơn, gắn kết hơn với công nghệ số, tiêu chuẩn xanh và cơ chế chia sẻ rủi ro, qua đó biến hợp tác, liên kết thành “chuẩn mực” của sản xuất nông nghiệp trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu. Các mô hình liên kết theo cơ chế thị trường đã tạo nền tảng ban đầu quan trọng, nhưng để liên kết trở thành “xương sống” của nền nông nghiệp hiện đại, cần tiếp tục hoàn thiện cả ba khía cạnh: Thể chế - năng lực tổ chức - hạ tầng số. Trên cơ sở đó, ông Lê Đức Thịnh kiến nghị giao Bộ NN&MT chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành địa phương tham mưu trình Chính phủ xây dựng “Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, trình Chính phủ ban hành trong năm 2026.

Toàn cảnh Hội nghị
Sau phần trình chiếu dideo khái quát thành tựu kết quả 6 thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, Hội nghị đã lắng nghe đại diện Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và Môi trường; Trường Chính sách công và phát triển nông thôn; Hội Nông dân Việt Nam; Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Viện Kinh tế và Thể chế nông nghiệp, Học viện nông nghiệp Việt Nam; Liên minh HTX Việt Nam; Sở Nông nghiệp và Môi trường một số địa phương trình bày tham luận về: Tình hình và kết quả triển khai Nghị định số 98/2018/CP; Rào cản, vướng mắc trong triển khai thực hiện chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản và kiến nghị sửa đổi, bổ sung; Vai trò của HTX trong liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP; Kinh nghiệm tư vấn hỗ trợ xây dựng dự án, kế hoạch liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi giá trị; kiến nghị hoàn thiện chính sách hợp tác liên kết trong sản xuất, tiêu thụ gỗ rừng trồng tại miền Trung; Liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ giữa DN với HTX và nông dân là giải pháp chính để phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo…
Với tham luận “Rào cản, vướng mắc trong triển khai thực hiện chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản và kiến nghị sửa đổi, bổ sung”, ông Hoàng Vũ Quang, Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường đề xuất, hỗ trợ, tạo thuận lợi DN tham gia xây dựng vùng nguyên liệu lớn gắn với liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng nhà xưởng, kho chứa, kho lạnh... phục vụ sấy, sơ chế, bảo quản, chế biến nông sản. Đồng thời, hỗ trợ, tạo thuận lợi cho HTX thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phát triển sản xuất, xây dựng nhà xưởng phục vụ hoạt động vận chuyển, bảo quản, phơi sấy, sơ chế chế biến nông sản. Hỗ trợ HTX tập trung, tích tụ đất để tổ chức sản xuất theo cánh đồng lớn.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&MT Võ Văn Hưng nhấn mạnh, sau 6 năm, chúng ta đã từng bước xây dựng chuỗi giá trị nông sản quy mô lớn, có sức lan tỏa. Chuỗi liên kết này là công cụ quản trị trung tâm, giúp truy xuất nguồn gốc, minh bạch thương mại và quản lý toàn bộ chuỗi. Với cam kết phát triển bền vững và Net - Zero 2050, giá trị sản phẩm và tín chỉ các-bon trở thành động lực kinh tế mới, đặc biệt cho nông dân, HTX.
Nhận định những tồn tại hạn chế hiện nay về chuỗi liên kết chưa bền vững, chưa phủ rộng; thủ tục hỗ trợ rườm rà; liên kết số và xanh chưa được quan tâm; năng lực HTX chưa đủ mạnh để điều phối chuỗi… cho thấy liên kết đã hình thành về số lượng nhưng chưa vững về chất, cần một bước đột phá, Thứ trưởng nêu lên 4 nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới, bao gồm: (i) Cải cách thủ tục và cơ chế hỗ trợ theo hướng minh bạch, thuận lợi, lấy hiệu quả, giá trị chuỗi làm trọng tâm; (ii) Phát triển chuỗi giá trị số và xanh, quản trị điện tử, truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải các-bon; (iii) Tổ chức sản xuất gắn với vùng nguyên liệu chuẩn, dịch vụ công minh bạch, cấp mã vùng trồng và đào tạo số hóa; (iv) Xây dựng hệ sinh thái tư vấn liên kết xuyên suốt - kỹ thuật, quản trị hợp đồng, thị trường, chuyển từ hỗ trợ hành chính sang môi trường hợp tác thực chất. “Liên kết chuỗi giá trị không chỉ là phương thức sản xuất, mà còn là văn hóa hợp tác, niềm tin và bản lĩnh của nông dân, HTX và DN Việt Nam. Việc đề xuất giải pháp chiến lược, đưa liên kết nông nghiệp lên mức hoàn thiện, hiện đại, số hóa và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội trong kỷ nguyên hội nhập”- Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thanh Bình (Theo congnghiepmoitruong.vn)