Banner trang chủ
Thứ Năm, ngày 18/07/2024

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cơ quan quản lý nhà nước ngành môi trường Việt Nam

07/11/2016

   1. Thực trạng về nguồn nhân lực cơ quan quản lý nhà nước ngành môi trường

   Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước (QLNN) về BVMT, đội ngũ công chức, viên chức ngành môi trường đã phát triển về số lượng, trưởng thành một bước về chất lượng, đáp ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp phát triển của ngành môi trường nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Hiện ngành môi trường đang có một đội ngũ cán bộ với trình độ chuyên môn và ngoại ngữ tốt tham gia tích cực, hiệu quả trong công tác QLNN về môi trường.

   Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN về môi trường vẫn còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ chưa phù hợp (số cán bộ, công chức được đào tạo về kỹ thuật nhiều hơn số cán bộ công chức được đào tạo về nghiệp vụ quản lý, kinh tế; Số cán bộ, công chức có chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí công tác không nhiều). Ở Trung ương, còn thiếu những cán bộ công chức có trình độ cao, chuyên môn sâu. Ở địa phương, đội ngũ cán bộ công chức còn thiếu về số lượng và hạn chế trong kỹ năng quản lý. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường tại cấp quận, huyện, phường, xã còn thiếu và hầu hết chưa có cán bộ được đào tạo chuyên ngành về môi trường.

   Từ những vấn đề thực tiễn đòi hỏi ngành môi trường phải có chiến lược phát triển phù hợp, có tầm nhìn, đánh giá đúng xu thế phát triển kinh tế - xã hội, đưa ra chiến lược phát triển lâu dài của ngành. Đó là kiện toàn tổ chức bộ máy, phát triển nguồn nhân lực quản lý môi trường thông qua đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật đảm bảo đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ QLNN trong tình hình mới.

Phát triển nguồn nhân lực quản lý môi trường thông qua đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước

   Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực với những giải pháp đồng bộ”. Việc xác định phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường Việt Nam thông qua công tác đào tạo và bồi dưỡng, chính là cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta trong hoạt động QLNN. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường là tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ”.

   Với chủ trương chuyển mạnh quá trình đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất cán bộ; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Đào tạo và bồi dưỡng phải gắn với nhu cầu phát triển của đơn vị, cơ quan, gắn với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đây là quan điểm định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường ở nước ta trong những năm tới.

   Mục đích cuối cùng của công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực ngành môi trường xét đến cùng là sử dụng tối đa nguồn nhân lực, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của công tác QLNN về BVMT trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, hiện nay phát triển nguồn nhân lực còn thông qua công tác tuyển dụng, sử dụng, bố trí, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và thực hiện chính sách đãi ngộ nhân tài, thu hút nhân tài vào nền công vụ ... Đây là những nội dung mà hiện nay được đánh giá là vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện.

   Trong các cơ quan QLNN ngành môi trường, đội ngũ cán bộ, công chức là nguồn nhân lực, có vị trí quan trọng trong tổ chức, hoạt động của cơ quan QLNN, có vai trò quyết định đến sự phát triển của ngành cũng như đất nước, là những người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, quản lý 18 lĩnh vực của ngành môi trường; tham mưu, hoạch định, tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra việc thực thi các đường lối, chính sách về lĩnh vực môi trường.

   Hiện nay, việc bố trí, sử dụng, thu hút, trọng dụng nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam nói chung và ngành môi trường nói riêng đang được quan tâm và là mục tiêu trọng tâm của ngành môi trường cần hướng tới trong việc nâng cao chất lượng nền công vụ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc thu hút, trọng dụng nhân tài đang gặp những khó khăn, thách thức đó là việc vận dụng những ưu điểm của mô hình công vụ - việc làm, khắc phục những hạn chế của mô hình công vụ - chức nghiệp ở Việt Nam hiện nay; Nhiều quan điểm cải cách và nội dung đổi mới về công vụ, công chức đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng nhận thức còn chưa thống nhất và thiếu kiên quyết trong triển khai thực hiện; Yêu cầu về cải cách hành chính, chính sách về tiền lương, hướng tới mục tiêu bảo đảm cho công chức có thể sống được bằng lương.

   Ngoài ra, việc tuyển dụng nhân lực mới của ngành môi trường cần gắn với việc cơ cấu lại tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế theo mục tiêu đổi mới về chất, thay thế mạnh mẽ những người không đáp ứng được yêu cầu thực thi công vụ trong bối cảnh yêu cầu cấp thiết của công tác BVMT hiện đại. Có như vậy mới xây dựng được “nền” công vụ ngành môi trường “mở”, nghĩa là có tuyển dụng nếu đáp ứng được yêu cầu của vị trí việc làm và vị trí việc làm còn trống, có cơ chế chuyển ra (cho thôi việc, chuyển vị trí công tác khác…) nếu không đáp ứng được yêu cầu công việc trong công tác quản lý.

   Đồng hành cùng công tác tuyển dụng nhân lực của cơ quan QLNN ngành môi trường, phải tập trung thực hiện chính sách sử dụng và chế độ đãi ngộ nhân lực. Có cơ chế chính sách phù hợp góp phần phát hiện, tuyển chọn, tiến cử, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển, trọng dụng và đãi ngộ người tài vào làm việc tại các cơ quan QLNN ngành môi trường. Cần nghiên cứu xây dựng và xác định đúng nội hàm của khái niệm nguồn nhân lực có chất lượng cao để tránh hình thức, đánh đồng nhân tài với người có bằng cấp cao nhưng thiếu kỹ năng nghề nghiệp, thiếu đạo đức trong thực thi công vụ trong ngành môi trường.

   Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến công tác cán bộ, coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, khi đã có đường lối đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường không chỉ góp phần chính, tạo động lực để nâng cao hiệu quả công tác BVMT trong thời kỳ mới, mà còn nhằm hướng tới xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, tác động tích cực đến nhiều hoạt động trong lĩnh vực môi trường.

   Việc quản lý, phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường không chỉ một sớm, một chiều mà có được đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất phục vụ nhân dân mà là một quá trình bền bỉ, lâu dài, liên tục, có sự đổi mới và kế thừa. Do đó, bên cạnh việc đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường cần phải kết hợp hài hòa các nội dung khác trong công tác phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường như việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, luân chuyển, các chế độ phúc lợi, khen thưởng, kỷ luật... đối với nhân lực trong ngành.

   Hiện nay, nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế do sự bất cập về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu ngành nghề. Trong khi đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường còn nhiều hạn chế và bất cập. Việc thực hiện quy hoạch nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường mới chỉ tập trung vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức và đào tạo theo nhu cầu xã hội, mà chưa quan tâm đúng mức đến các khâu trong công tác cán bộ như thu hút, tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ cũng như quy hoạch, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ... Nhận thức của một số lãnh đạo đơn vị về công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chưa đầy đủ, toàn diện; chưa quan tâm chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ tăng cường năng lực cho nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường; chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch, luân chuyển, bố trí và sử dụng cán bộ. Một số đơn vị chưa chủ động chuẩn bị nguồn cán bộ để lựa chọn cử đi đào tạo, bồi dưỡng. Công tác tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức còn hạn chế do hoạt động đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện phân tán ở một số đơn vị thuộc ngành.

   2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường Việt Nam

   Trong thời gian tới, quan điểm định hướng về phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường cần tập trung vào một số nội dung:

   Thứ nhất, phát triển nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường tiếp tục phải bảo đảm gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội. Đây là khâu đột phá phát triển ngành môi trường, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước. Coi đầu tư cho đào tạo nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường là đầu tư phát triển, từng bước tăng cường đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng để phát triển nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường.

   Thứ hai, phát triển nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường mang tính chiến lược lâu dài; là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục; có trọng tâm, trọng điểm. Phải bảo đảm tính hài hòa về cơ cấu, cân đối theo lĩnh vực, vùng, miền, lãnh thổ; việc đào tạo, bồi dưỡng phải gắn liền với việc bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, nhằm phát huy đầy đủ năng lực, phẩm chất của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển con người, mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam.

   Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường ngoài việc tập trung nâng cao hiệu quả đào tạo, cần tập trung công tác quản lý và sử dụng cán bộ; ưu tiên xây dựng các cơ sở đào tạo chất lượng cao, đào tạo đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học và công nghệ, các nhóm nhân lực trình độ cao thuộc lĩnh vực môi trường.

   Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường phải kết hợp khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước và xã hội trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với đội ngũ các chuyên gia và nhà khoa học đầu ngành các lĩnh vực về môi trường.

   Thứ năm, xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực ngành môi trường giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 phải bảo đảm tính chiến lược, có lộ trình và phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta.

   Việc phát triển nhân lực cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển tổng thể và dài hạn, nhưng trong mỗi thời kỳ nhất định cần xây dựng định hướng cụ thể, từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp trong từng giai đoạn, phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế.

   BVMT là nhiệm vụ xuyên suốt, trọng tâm quan trọng trong sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước. Cùng với sự phát triển của đất nước, nguồn nhân lực ngành môi trường Việt Nam bước đầu đáp ứng được những nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh đòi hỏi ngành môi trường phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật đảm bảo đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ QLNN trong tình hình mới.

Nguyễn Kim Tuyển

Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ

Tổng cục Môi trường

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 10/2016)

Ý kiến của bạn