Banner trang chủ
Thứ Hai, ngày 25/11/2024

Một số kết quả thực nghiệm xử lý chất thải rắn nguy hại bằng hệ thống lò đốt không dùng nhiên liệu dạng cột NFIC

08/10/2018

TÓM TẮT

    Cấu trúc lò đốt dạng cột không dùng nhiên liệu NFIC, gồm 3 khoang (sấy, các bon hóa, cháy), được vận hành với nguyên lý đối lưu không khí (thổi khí vào lò hoặc hút khí tự nhiên). Kết quả thử nghiệm ban đầu với các mẫu chất thải nguy hại  (CTNH) y tế nạp vào lò liên tục cho thấy, với khối lượng rác từ 2,1 - 3,3 kg/h, độ ẩm từ 2,8 - 11,7%, việc tăng cường hút gió để sấy rác sẽ đẩy nhanh thời gian đốt khoảng10-20%. Với vận tốc gió 1,1 m/s, thời gian cháy từ 32 - 58 phút nhanh hơn so với khi đốt ở vận tốc gió 0,8 m/s có thời gian cháy từ 42 - 75 phút. Nhiệt độ các khoang sấy, khoang các bon hóa đo được cao nhất lần lượt là 195oC, 775oC và 1275 oC sau 25 - 35 phút vận hành.Nhiệt độ ống khóivào khoảng 33-68oC. Độ cháy của các mẫu rác thử nghiệm dao động từ 77,3 - 87,5% tương ứng với độ tro của rác sau đốt trong khoảng 9,3 - 12,4 %. Kết quả bước đầu cho thấy, hệ thống có khả năng xử lý hiệu quả CTNH.

Từ khóa: Chất thải nguy hại, không dùng nhiên liệu, lò đốt, phương pháp thiêu đốt.

I. Mở đầu

    Thiêu đốt là quá trình xử lý chất thải ở nhiệt độ cao. Đây là phương pháp xử lý triệt để nhất  nhằm đảm bảo loại trừ các tính độc của chất thải, có thể giảm thiểu thể tích chất thải rắn (CTR) đến 90-95 % và tiêu diệt hoàn toàn vi khuẩn gây bệnh. Phương pháp cho phép đáp ứng tất cả các tiêu chí về tiêu hủy an toàn. Chính vì vậy, đây là phương pháp được lựa chọn để xử lý CTR nguy hại [1, 4]. Phương pháp này cho phép ô xy hóa rác thải ở nhiệt độ cao, khiến các thành phần cháy được trong CTR được chuyển hóa thành khí và thành phần không cháy được tạo thành tro, xỉ. Phương pháp này rất phổ biến trên thế giới hiện nay để xử lý CTR và CTNH công nghiệp, chất thải y tế nói riêng [2, 3]. Phương pháp này có những ưu điểm như: tận dụng nhiệt cho lò hơi, sưởi hoặc các lò công nghiệp và phát điện; không cần nhiều diện tích đất so với phương pháp khác; xử lý triệt để các thành phần ô nhiễm, giảm tối đa thể tích của CTR; tro xỉ hoàn toàn không nguy hại, có thể sử dụng thành những vật liệu tái chế hoặc làm vật liệu xây dựng. Tùy thuộc vào loại hình CTR, quy mô công suất cũng như điều kiện về kinh tế - kỹ thuật mà sử dụng kỹ thuật thiêu đốt khác nhau. Các kỹ thuật đốt cơ bản trên thế giới có thể kể đến, gồm có: kỹ thuật đốt thủ công dạng hở, phương pháp đốt có kiểm soát không khí vào lò, kỹ thuật đốt trong lò quay, kỹ thuật đốt trong lò đốt tấng sôi, công nghệ đốt CTR có thu hồi năng lượng, công nghệ đốt chế tạo nhiên liệu, công nghệ thiêu đốt plasma.

    Tại Việt Nam, để xử lý CTR, bên cạnh các phương pháp như chôn lấp, ủ, tái chế, tái sử dụng thì phương pháp thiêu đốt được áp dụng khá phổ biến tại các cơ sở xử lý. Do vậy các nghiên cứu và ứng dụng liên quan đến phương pháp này cũng rất được chú trọng trong thời gian gần đây. Viện Công nghệ môi trường - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã nghiên cứu và chế tạo lò đốt CTR nguy hại VHI-18B với kết cấu 2 buồng đốt sơ cấp và thứ cấp với nhiệt độ vận hành lần lượt là 500-800oC và 1.050-1.200oC, có công suất xử lý từ 50 - 100kg/mẻ. Hệ thống xử lý khí thải bằng tổ hợp hấp phụ-cyclon ướt đảm bảo loại bỏ các thành phần khí gây ô nhiễm môi trường, bụi và kim loại nặng, khí được làm lạnh nhanh xuống dưới 200 oC tránh tình trạng tái sinh dioxin [4, 6]. Viện Công nghệ hóa học - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cũng đã chế tạo thành công lò đốt CTR y tế công suất nhỏ WI-3C 20 kg rác/ca và WI-3B 50 kg rác/ca với hai buồng đốt sơ cấp và thứ cấp có nhiệt độ khi vận hành là 300-900oC và 900 – 1.100oC. Khí thải sau buồng đốt thứ cấp được xử lý với cyclon tách bụi trước khi tới xử lý tại reactor, với xúc tác GC3M, hấp thụ dung dịch kiềm để xử lý toàn bộ các chất hữu cơ còn sót lại và các thành phần Nito phân tử trong NOx. Lò đốt rác thải y tế BELI TSH-20G của Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao Công nghệ cũng có cấu tạo 2 buồng đốt sơ cấp và thứ cấp với nhiệt độ cháy lần lượt 450-800oC và 1.100-1.150oC có công suất 20 kg/giờ, có thể nạp rác và vận hành liên tục. Khí thải được xử lý bằng phương pháp hấp phụ dung dịch kiềm nhẹ. Nhìn chung các lò đốt đều có tính đến nhiệt độ cao và thời gian lưu khí trong buồng thứ cấp lớn hơn 2 giây, chính vì vậy, các lò đốt này đều có thể sử dụng để đốt CTR sinh hoạt và CTR nguy hại với khí thải đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, phần lớn các lò đốt này tồn tại một số nhược điểm như: chi phí đốt cao do phải duy trì nhiệt độ lớn cho các buồng đốt; chưa tận dụng được nhiệt trong quá trình đốt để sấy rác (kỹ thuật sấy rác rất phức tạp và gây mùi hôi thối, độ ẩm rác cao dẫn đến chi phí đốt rác tăng); thời gian lưu khói 2 giây trong khoang thứ cấp với thể tích cố định nên không thể tăng công suất khi đốt rác có độ ẩm thấp; nhiệt độ tại hai buồng đốt cao nên phải sử dụng vật liệu chịu lửa đắt tiền, các phụ kiện làm việc liên tục ở nhiệt độ cao nên nhanh hỏng phải thay thế sửa chữa kéo theo chi phí bảo dưỡng cao [7].

    Thực tế trong 5 năm trở lại đây, có nhiều hệ thống thiêu đốt được lắp đặt tại các cơ sở không được vận hành hoặc vận hành cầm chừng, đối phó do chi phí nhiên liệu cho các công đoạn xử lý rất cao (khoảng từ 5.000-20.000 VND/kg) không phù hợp với kinh tế của nhiều cơ sở sử dụng [1, 5]. Vì vậy, cần có nghiên cứu công nghệ đột phá, nhằm giảm chi phí đốt xuống thấp nhất, phù hợp với thiêu đốt CTNH và CTR sinh hoạt. Hiện nay, trên thế giới đã có 2 nhóm nghiên cứu đã bước đầu có kết quả trong việc thử nghiệm kỹ thuật đốt không dùng nhiên liệu: Nhóm các nhà khoa học Nga, Viện nghiên cứu các vấn đề hóa lý thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga (TP Trierno Golovka) đã nghiên cứu thành công trong mô hình thủy tinh chịu nhiệt cột đứng, công suất 5-10 kg/h; Nhóm nghiên cứu của Nhật Bản có sản phẩm thương mại công suất từ 20-100 tấn/ngày đối với CTR sinh hoạt. Tuy nhiên, chi phí đầu tư công nghệ khoảng 3 tỷ VNĐ/tấn, ngoài ra chi phí bản quyền công nghệ cho hệ thống này từ 5-10 triệu USD, tùy theo công suất của hệ thống.

    Với những lý do trên, hệ thống lò đốt dạng cột không dùng nhiên liệu NFIC với công suất thử nghiệm 50 kg/ngày đã được chế tạo và có kết quả vận hành ban đầu. Hệ thống tận dụng hoàn toàn nhiệt để sấy rác nên không cần tới thiết bị sấy phụ trợ. Quá trình cháy được điều khiển bằng không khí tự nhiên nên các khoang sấy, khoang các bon hóa không cần dùng vật liệu chịu nhiệtvà cách nhiệt nên giảm đáng kể chi phí đầu tư, bảo dưỡng. Ngoài ra, thể tích khoang đốt có thể điều chỉnh được bởi hệ thống cấp khí nên thời gian lưu cháy lớn, xử lý triệt để chất thải. Hệ thống không có béc đốt, không dùng nhiên liệu nên chi phí đầu tư và xử lý giảm 50 - 70% so với hệ thống đốt thông thường [7, 8].

II. Vật liệu và phương pháp thực nghiệm

2.1. Mô hình thực nghiệm NFIC quy mô 50kg/ngày

a. Nguyên lý và mô hình thực nghiệm

    Lò đốt NFIC có dạng cột (Hình 1), hoạt động hoàn toàn dựa trên nguyên lý đối lưu không khí với kết cấu hình trụ đứng, phân chia thành 4 khoang mặc định, không ranh giới, được đặt lần lượt theo chiều cao từ trên xuống, bao gồm: khoang tiếp nhận rác (I), sấy (II), các bon hóa (III) và cháy (IV). Không khí vào cột tháp được cấp vào bằng một quạt hút gió (12), lưu lượng khí vào các khoang sẽ được điều chỉnh bằng van chỉnh gió (Q1, Q2 và Q3) và được điều chỉnh phụ thuộc vào độ ẩm của chất thải.

    Chất thải được nạp vào hệ thống qua khoang tiếp nhận rác có cấu tạo dạng miệng phễu, được ngăn cách với khoang sấy bằng một tấm chắn (1) có thể tháo lắp để thuận tiện cho việc nạp rác. Nhiệt độ tại khoang này có thể lên tới 70 oC. Trong quá trình đốt, tấm chắn phải luôn trong trạng thái đóng để đảm bảo không khí đi vào lò theo hướng từ dưới lên. Tiếp đến là khoang sấy với nhiệt độ từ 80-125 oC. Tại đây, có trang bị đường ống dẫn khói đến tháp hấp thụ (4), phía dưới ngăn cách với khoang các bon hóa bằng một thanh ghi (3) có thể tháo lắp, dùng để giữ rác lại trong khoang sấy, đảm bảo rác được sấy đủ thời gian trước khi được đưa xuống quá trình tiếp theo. Sau khi sấy, rác được đưa tới khoang các bon hóa với nhiệt độ từ 300-500 oC. Quá trình này sẽ diễn ra từ 10-15 phút tùy thuộc vào nhiệt độ trong khoang trước khi chuyển đến quá trình cháy. Khoang cháy được ngăn cách với khoang carbon hóa bằng một tấm ghi (5), tại đây nhiệt độ dao động từ 800-1.200 oC. Bên ngoài khoang cháy được bao bọc một lớp bông thủy tinh cách nhiệt, bên dưới có một lớp ghi nhằm giữ rác lại cho quá trình cháy diễn ra triệt để trước khi tro rơi xuống bếp đốt.Bếp đốt nằm ở dưới cùng, có hình lập phương, bên trong được làm từ gạch chịu lửa, được trang bị một cửa thao tác giúp việc tháo tro và đốt mồi. Tại các khoang sấy, khoang các bon hóa và cháy có các vị trí (2, 4, 6) để theo dõi độ ẩm và nhiệt độ. Tại các khoang các bon hóa, cháy và bếp đốt có các van chỉnh gió (Q1, Q2 và Q3) để điều chỉnh lượng không khí vào từng khoang. Nhờ kết cấu này, rác sẽ được sấy bằng nhiệt do đốt rác trước khi được đưa xuống khoang các bon hóa. Ranh giới giữa khoang các bon hóa và cháy không cố định, nên thể tích khoang cháy có thể thay đổi phụ thuộc vào tốc độ cấp không khí cho quá trình cháy.Do vậy, thể tích khoang cháy có thể thay đổi để tăng thời gian lưu khí thải (>2 giây).

    Khí thải ra khỏi khoang sấy trước khi đến ống khói thải (VIII) sẽ được đưa qua xử lý tại tháp hấp thụ (VI) có cấu trúc hình trụ. Bên trong khí thải sẽ được tiếp xúc với dung dịch hấp thụ qua dàn phun bên trong tháp. Dung dịch hấp thụ sẽ được bơm tuần hoàn. Bên dưới tháp có bố trí van xả cặn.

 

Hình 1. Sơ đồ cấu tạo hệ thống lò đốt NFIC

 

    Chú thích: I - Khoang tiếp nhận chất thải rắn; II - Khoang sấy; III - Khoang các bon hóa, IV - Khoang cháy; V - Bếp đốt; VI - Tháp hấp thụ; VII - Bể chứa dung dịch hấp thụ; VIII - Ống khói. 1 - Tấm chắn; 2 - Lỗ đo độ ẩm; 3, 5 - Thanh ghi 1; 4, 6 - Lỗ đo nhiệt độ; 7 - Vòi phun; 8, 9 - Khay tưới; 10 - Van xả cặn; 11- Bơm dung dịch hấp thụ; 12 - Quạt hút khí thải; K - đường khí; N - đường nước.

b. Kích thước mô hình thực nghiệm NFIC quy mô 50 kg/ngày

    Như đã trình bày ở trên, lò đốt NFIC được cấu tạo bởi 5 khoang với kích thước D = 120 mm, H = 2000 mm (Hình 2). Ở các khoang cháy và Bếp đốt còn được bao bọc bởi vật liệu cách nhiệt bằng bông thủy tinh và gạch chịu lửa.

 

Hình 2. Kích thước, cấu tạo các khoang chức năng chính hệ thống NFIC công suất 50 kg/ngày

 

2.2. Điều kiện thực nghiệm

     Quá trình thực nghiệm được tiến hành liên tục với quy mô công suất từ 2,1-3,3 kg/h (tương đương với 50,4-79,2 kg/ngày), độ ẩm của rác thải từ 10-20%, tốc độ gió trong tháp từ 0,8-1,1 m/s. Nhiệt độ trong khoang sấy được duy trì từ 80-200 oC, trong khoang các bon hóa: 300 - 500oC; trong khoang cháy: 800-1.200oC. Tất cả các thay đổi về nhiệt độ được điều chỉnh bởi các van chỉnh gió. Việc xử lý khí thải sinh ra sẽ được tiến hành trong tháp hấp thụ với sự điều chỉnh tỷ lệ dung dịch hấp thụ/lưu lượng khí thải, α=L/G=0,1-0,5 m3/m3 (dung dịch hấp thụ/khí thải).

   Mẫu rác thí nghiệm là CTR y tế là hỗn hợp: nhựa cứng (chai nhựa, găng tay, ống tiêm...), bông, gạc, giấy và các loại rác hỗn hợp. Mỗi mẫu rác có khối lượng từ 2,1~3,3 kg với độ ẩm dao động từ 4,5~14%. Các mẫu rác được đưa vào lò liên tục khi nhiệt độ các khoang lò đã đạt đến nhiệt độ tối ưu.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đốt

   Nghiên cứu thực nghiệm xác định các yếu tố cơ bản như: thời gian đốt, nhiệt độ từng khoang, khả năng sấy rác, hiệu quả đốt rác. Bên cạnh đó, xác định các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả đốt như nhiệt độ khoang cháy, lưu lượng cấp không khí và thời gian lưu khí thải trong cột tháp. Xác định được mối liên quan giữa nhiệt độ cháy và lưu lượng cấp khí.

2.4. Các thiết bị, dụng cụ thực nghiệm

+ Máy đo nhiệt độ: Nhiệt kế di động  DM6801B

+ Máy đo vận tốc gió UT363 UNI-T

+ Cân Jadever

2.5. Phương pháp xác định điều kiện thử nghiệm

* Công thức tính độ ẩm :

 

trong đó: 

 

* Công thức tính độ tro:

trong đó: mT: Khối lượng tro sau đốt; xT: Độ tro

* Công thức tính độ cháy :

 

trong đó:  

 

III. Kết quả và thảo luận

3.1. Ảnh hưởng của độ ẩm

    Thực nghiệm được tiến hành với 10 mẫu rác thải có khối lượng từ 2-3 kg/mẫu (xem Bảng 1). Thí nghiệm tiến hành bằng cách đốt mẫu rác trực tiếp bằng hệ thống và đồng thời đốt mẫu rác đã sấy độ ẩm để so sánh ảnh hưởng của độ ẩm với thời gian đốt. Khi tiến hành thí nghiệm, nhiệt độ các khoang trong lò đã đạt đến nhiệt độ tối ưu để vận hành. Kết quả xác định khối lượng, độ ẩm và thời gian đốt của các mẫu rác được sấy bên ngoài và sấy trong lò được thể hiện trong Bảng 1 dưới đây, T1 là thời gian đốt rác chưa sấy, T2 là thời gian đốt rác đã sấy:

 

Bảng 1. Các thông số và thời gian đốt của các mẫu rác thí nghiệm

Mẫu

Khối lượng (kg)

Độ ẩm (%)

T1

phút

T2

phút

Độ cháy (%)

Độ tro (%)

 

M1

2,43

4,5

50

43

85,6

9,9

 

M2

2,1

13.8

43

32

76,9

9,3

 

M3

2,5

10.4

51

42

77,5

12,1

 

M4

2,6

2.8

60

48

87,5

9,4

 

M5

2,23

8.9

46

37

81,2

9,9

 

M6

2,24

10.3

44

35

77,3

12,4

 

M7

2,97

11.7

63

50

79

9,3

 

M8

3,3

10.3

69

58

80,2

9,5

 

M9

2,69

3.3

63

52

86,6

10,1

 

M10

2,23

9.9

45

33

81.6

9,9

 

 

    Kết quả cho thấy, thời gian đốt rác khi rác còn độ ẩm và rác đã sấy có sự chênh lệch rõ rệt. Rác còn độ ẩm mất nhiều thời gian đốt hơn do cần thời gian lưu lại khoang sấy và khoang các bon hóa để loại bỏ hoàn toàn độ ẩm trước khi đến với công đoạn đốt. Thời gian để sấy các mẫu rác ẩm trong khoang sấy của lò NFIC là khoảng 10-15 phút. Khi đốt rác có độ ẩm, ống khói xuất hiện nhiều khói hơn so với khi đốt rác đã sấy. Đối với đốt rác độ ẩm cao, tần suất nạp rác sẽ thấp hơn khi đốt rác đã sấy.

   Kết quả đo độ cháy của các mẫu rác cho thấy, khả năng xử lý của lò NFIC tương đối ổn định, độ cháy luôn duy trì ở mức hơn 75%. Tuy nhiên, theo Bảng 1, kết quả cháy phụ thuộc vào khả năng sấy rác do các mẫu rác có độ ẩm cao có độ cháy thấp hơn. Điều này hoàn toàn có thể khắc phục bằng việc hiệu chỉnh tốc độ gió trong quá trình cháy bằng các van để tối ưu cho quá trình sấy và các bon hóa.

3.2. Nhiệt độ tại các khoang

Trong khoảng thời gian đốt một mẫu rác 2 kg, nhiệt độ tại các khoang được theo dõi cứ 5 phút một lần. Bảng 2 thể hiện nhiệt độ theo dõi tại các khoang trong suốt thời gian đốt 2 kg mẫu rác.

 

Bảng 2. Nhiệt độ đạt được tại các khoang chức năng trong thời gian đốt

Thời gian (min)

Nhiệt độ (°C)

Khoang sấy

Khoang các bon hóa

Khoang cháy

Ống khói

5

38

55

230

33

10

45

120

367

38

15

80

326

1090

54

20

133

475

1246

63

25

154

535

1275

68

30

185

680

1033

65

35

195

775

923

63

40

120

440

714

54

45

48

250

533

40

 

 

     Kết quả cho thấy, từ phút 15, nhiệt độ của các khoang lần lượt đạt được nhiệt độ theo công suất thiết kế. Nhiệt độ tối đa tại các khoang sấy, khoang các bon hóa và cháy là 195oC, 755oC, 1275oC, hoàn toàn có thể đảm bảo các công đoạn hoạt động hiệu quả theo thiết kế. Nếu đảm bảo duy trì rác nạp vào liên tục sẽ duy trì được nhiệt độ giúp quá trình sấy và các bon hóa diễn ra hiệu quả. Nhiệt độ khí sau xử lý dao động từ 30-70oC do đã được giảm đáng kể qua bước dập khói bằng dung dịch ướt.

3.3. Ảnh hưởng của vận tốc gió đến thời gian đốt

     Các mẫu từ M1 - M10 cũng được đốt thử nghiệm tại hai điều kiện tốc độ gió khác nhau: 1,1 m/s và 0,8 m/s để so sánh sự ảnh hưởng của yếu tố này tới thời gian đốt. Bảng 3 thể hiện sự chênh lệch thời gian đốt tại hai điều kiện tốc độ gió.

 

Bảng 3. Thời gian đốt các mẫu rác trong hai điều kiện tốc độ gió

Mẫu

Thời gian đốt (phút)

1,1 m/s

0,8 m/s

M1

43

55

M2

32

41

M3

42

54

M4

48

62

M5

37

48

M6

35

45

M7

50

65

M8

58

75

M9

52

67

M10

33

42

 

 

     Đúng như với nguyên lý vận hành đối lưu không khí của lò, tốc độ hút gió càng cao thì thời gian đốt cháy của rác càng nhanh. Tuy nhiên, việc đẩy nhanh tốc độ hút cũng cần được thí nghiệm kỹ càng hơn để tối ưu thời gian lưu khí thải trong lò để loại bỏ được dioxin và furan trong khí thải.

IV. Kết luận

    Từ các kết quả thử nghiệm ban đầu khi vận hành lò đốt NFIC quy mô 50 kg/ngày cho thấy:

1. Khả năng vận hành liên tục đạt được nhiệt độ ở khoang cháy là cao sau 15 phút vận hành, nhiệt độ cao nhất có thể đạt đến 1.275 oC;

2. Việc cấp không khí có thể làm tăng hiệu quả xử lý, với vận tốc cấp khí từ 1,1 m/s thời gian cháy sẽ giảm từ 10-15 phút so với tốc độ gió 0,8 m/s.

3. Việc điều khiển quá trình cháy hoàn toàn có thể bằng việc cấp khí bằng các van cấp khí ở từng khoang của lò. Nhiệt độ ở các khoang chức năng sau 10-15 phút hoạt động sẽ đạt được ở mức thiết kế (khoang sấy: 70-200 oC, khoang carbon hóa 300-500 oC và khoang cháy: 800-1200 oC và được duy trì bởi việc nạp rác liên tục.

4. Độ tro ổn định trong khoảng từ 10-12 % cho thấy, lò NFIC hoạt động tương đối ổn định.

5. Thời gian đốt rác khô sử dụng van cấp gió cho vùng sấy II nhanh hơn 10-15 phút cho một chu kỳ đốt. Tuy nhiên, cần có tính toán đến thời gian lưu khí tại khoang cháy.

 

Trịnh Minh Việt1, Phạm Quang Huy1, Trịnh Văn Tuyên1

1Viện Công nghệ Môi trường - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Nguyễn Đăng Linh2

2Trường Đại học Phương Đông

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng Việt III năm 2018)

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công thương (2011). Đánh giá thực trạng và xây dựng định hướng ưu tiên phát triển khoa học công nghệ ngành công nghiệp môi trường. Báo cáo của Bộ Công thương, Hà Nội.

2. Viện Công nghệ môi trường, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2006). Báo cáo dự án sản xuất thử nghiệm “Nghiên cứu công nghệ xử lý bã thải sơn công nghiệp trong các nhà máy cơ khí”, Hà Nội.

3. Viện Công nghệ môi trường, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2004).Báo cáo kết quả đề tài “Nghiên cứu công nghệ xử lý bã thải sơn công nghiệp trong các nhà máy cơ khí”, Hà Nội.

4. Viện Hóa học – Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia (2002). Báo cáo kết quả đề tài “Hoàn thiện công nghệ xử lý chất thải y tế nguy hại”Hà Nội.

5. Đặng Kim Chi và cộng sự (2009). Tài liệu hướng dẫn áp dụng các giải pháp cải thiện môi trường cho làng nghề tái chế kim loiaj thuộc đề tài cấp nhà nước ”Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi trường ở các làng nghề Việt Nam. Đại học Bách khoa Hà Nội.

6. Trịnh Văn Tuyên, Văn Hữu Tập, Vũ Thị Mai (2014). Xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại. NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

7. (2003). Technology of municipal solid waste treatment. EXPERIENCES AND CHALLENGES, NXB KHKT.

8. Joyce, L.E., (1989). “How to Calculate Waste Disposal Costs”, World Waste.

 

EXPERIMENTAL RESULTS OF TREATING HAZARDOUS SOLID WASTE BY NONE FUEL INCINERATOR OF COLUMN TYPE

Trịnh Minh Việt1, Pham Quang Huy1, Trịnh Văn Tuyên1

1Institute of Enviromental Technology, Vietnam Academy of Science and Technology

Nguyễn Đăng Linh2

2Phương Đông University

Abstract:

   The structure of the None fuel Incinerator of Column type (NFIC) consists of compartments: drying zone, carbonization zone and burning zone; which is operated according to the air convection (air blowed to the inlet or air exhausted at the inlet). The experimental result with the medical hazardous waste loaded continuesly showed that with the sample weightaround 2,1 – 3,3 kg/hand moisture 2,8 - 11,7%, the increase of air flow rate for drying accelerated the burning time by 10-20%. With the air flow rate of 1,1m/s, the burning time varied around 32-58 minutes which was faster than the 42-75 minutes burning time with 0,8m/s air flow rate. The highest temperature recorded at drying zone, carbonization zone and burning zone were 195 oC, 775 oC and 1275 oCrespectively after 25-35 minutes of operating. Temperature of the chimney was around 33-68 oC throughout the burning progress. The burning capacity of samples was varied around 77,3 - 87,5% corresponding to the percentage of ash after burned around 9,3 - 12,4%. The obtained experimental results had shown the capacity of treating hazardous waste of NFIC.

Key word: Hazardous waste, None fuel use, incinerator, combustion method

 

Ý kiến của bạn