Banner trang chủ
Thứ Sáu, ngày 29/11/2024

Hoạt động lấn biển và tác động môi trường sinh thái ven bờ trên thế giới và Việt Nam

30/03/2016

   Vùng biển ven bờ Việt Nam có 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái (HST) điển hình, thuộc về 6 vùng ĐDSH biển khác nhau, trong đó 3 vùng biển Móng Cái - Đồ Sơn, Hải Vân - Đại Lãnh và Đại Lãnh - Vũng Tàu có ĐDSH cao. Trong tổng số loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy, 2.038 loài cá, 653 loài rong, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm, 14 loài cỏ, 15 loài rắn, 12 loài thú, 5 loài rùa và 43 loài chim nước. Hiện nay vùng biển đang bị đe dọa với vấn đề suy giảm ĐDSH, do đánh bắt thủy sản quá mức. Ngoài ra, môi trường vùng nước biển ven bờ đã bị ô nhiễm chất thải rắn, dầu, kim loại và các chất thải sinh hoạt; chất lượng trầm tích đáy biển cũng bị ô nhiễm quá mức cho phép.

   Các hoạt động khai thác, sử dụng không hợp lý vùng bờ từ Bắc vào Nam, dẫn tới sự suy thoái các hệ sinh thái tại đây ngày càng gia tăng nghiêm trọng. Đặc biệt, nhiều công trình lấn biển xây dựng khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp resort, bể bơi, khu vui chơi giải trí, nuôi trồng thủy hải sản..., gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các HST và ô nhiễm môi trường biển. Bài báo đề cấp đến vấn đề lấn biển, tác động của chúng đến môi trường ven bờ và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững vùng ven bờ.

Trong vòng hơn 40 năm qua, Singapo đã lấn biển thêm khoảng 130 km2 và có khả năng mở rộng trong những năm tới

   Tác động của lấn biển vùng ven bờ trên thế giới và Việt Nam

   Theo thống kê, tại Hàn Quốc, đến năm 2006, 38% vùng đầm lầy ở vùng duyên hải đã được chuyển thành đất lấn biển; tại Singapo, hoạt động lấn biển bắt đầu từ đầu thế kỷ 19, khi còn là thuộc địa. Tuy nhiên, chương trình lấn biển chỉ diễn ra ở quy mô lớn từ thập niên 1960 trở lại. Trước năm 1960, Singapo có diện tích 581,5km2. Trong vòng hơn 40 năm qua, quốc gia này đã rộng thêm khoảng 130 km2, và có khả năng mở rộng thêm trên 100 km2 nữa trong thời gian tới; Macau, lấn biển thêm 170% diện tích ban đầu (170km); vịnh Tokyo - Nhật Bản lấn thêm 249 km…

   Tại nhiều quốc gia, do nhu cầu mở rộng diện tích của cộng đồng dân cư ngày càng tăng nên Chính phủ phải chọn lựa giải pháp khai hoang rừng, lấn biển, cải tạo các vùng đầm lầy ven biển để lấy đất xây dựng nhà ở và trồng trọt.

   Đối với Hàn Quốc, trong 30 năm qua, trên 40% diện tích vùng đất ngập nước (ĐNN) đã bị san lấp. Hàn Quốc đã tham gia Công ước về bảo tồn các vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế vào năm 1997 và ban hành Luật Bảo tồn vùng ĐNN vào năm 1999. Tuy nhiên, ngay tại vùng ĐNN thuộc duyên hải miền Tây Hàn Quốc vẫn đang diễn ra các công trình san lấp. Tháng 4/2010, Hàn Quốc đã khánh thành công trình đê biển lớn nhất thế giới có chiều dài 33km ở Saemangeum, thuộc tỉnh Jeolla. Đây là Khu ĐNN có ĐDSH cao, vùng đất bùn là nơi trú ẩn của hàng trăm nghìn loài chim, khoảng 160 loài cá, các loài cua và tảo biển. Các loài động vật đang bị đe dọa như chim rẽ gà con, chim ác là, chim moòng biển Saunders, chim choắt đốm, chim rẽ Anadyr...và nhiều loài thủy sinh trên các con sông cũng bị hủy diệt.

   Sự phát triển của công nghiệp và sự gia tăng nhanh chóng của dân số khiến các vùng ĐNN đang bị khai thác với tốc độ nhanh chóng không chỉ riêng ở Hàn Quốc mà trên toàn thế giới. Ước tính, khoảng 54% vùng ĐNN của Mỹ, 90% vùng ĐNN của New Zealand, 68% rừng đước Philipin đã biến mất do sự khai thác của con người.

   Trước tình trạng các công trình lấn biển gia tăng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các HST và môi trường biển, một số quốc gia trên thế giới đã đưa ra những quy định nhằm giảm thiểu thực trạng này. Tiêu biểu, ở cảng Victoria của Hồng Kông (Trung Quốc), các công trình lấn biển làm mất cân bằng về quy hoạch, thu hẹp khu cảng dẫn tới gây tắc nghẽn giao thông biển, phá vỡ cảnh quan, ô nhiễm môi trường… Vì vậy, ngay từ năm 1997, Chính phủ Hồng Kông đã ban hành Sắc lệnh bảo vệ Hải cảng. Nhờ sắc lệnh này, cảng Victoria được bảo vệ và gìn giữ như một di sản tự nhiên của Hồng Kông. Tại Ai Cập, Cục Môi trường (EEAA) đã ban hành hướng dẫn đánh giá tác động môi trường (ĐTM) cho các dự án khai hoang đất đai. Trong đó, có hướng dẫn chi tiết hoạt động ĐTM cho các dự án khai hoang đất đai đến các hệ sinh thái và chất lượng môi trường. Nội dung tập trung chủ yếu vào việc đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường của hoạt động khai hoang đất đến quần thể động thực vật trong khu vực, chế độ thủy động lực và chất lượng nước, vấn đề kinh tế - xã hội, chất lượng không khí…

   Tại Việt Nam, hoạt động khai khẩn đất đai được bắt đầu từ thời đại phong kiến nhà Trần (Trần Nhân Tông - 1248), đặc biệt là thời nhà Nguyễn, Nguyễn Công Trứ (1830) đã lấy địa bàn cấp huyện làm quy hoạch khai hoang và lấy thủy lợi làm căn cứ tổ chức quy hoạch ruộng đất.

   Sau khi thống nhất đất nước (1975), việc lấn biển, khai thác các bãi bồi và bảo vệ đất đai, chống xói lở bờ biển mới được chú trọng đặc biệt. Các cuộc khảo sát nghiên cứu biển - cửa sông được tiến hành thường xuyên và đã thu được những kết quả nhất định, góp phần khai thác có hiệu quả một số dạng tài nguyên và BVMT dải đất ven biển của một số vùng.

   Nhưng do hạn chế về mục tiêu và nội dung đặt ra nên chưa có những nghiên cứu chi tiết về những quá trình, yếu tố động lực vùng bờ, quy luật phát triển các bãi bồi ven biển cửa sông, các vấn đề về tài nguyên và môi trường, dự báo xu thế biến động bãi bồi…

   Theo thống kê từ năm 1958-1994, tại miền Bắc đã có 56 công trình khai hoang lấn biển với tổng diện tích là 55.465 ha. Ở đồng bằng sông Cửu Long, tại Cà Mau, diện tích đất bồi lấn ra biển trung bình hàng năm từ 80 - 100 m.

   Việc quai đê lấn biển phục vụ cho phát triển nông nghiệp chủ yếu xảy ra ở các vùng cửa sông lớn giàu phù sa và đào hút cát nuôi tôm trong vùng đất cát phục vụ phát triển thủy sản đã và đang tác động đáng kể đến tài nguyên và môi trường ven biển. Việc mở rộng đầm tự phát, làm cho nhiều loài thủy sinh, động vật ven biển, cửa sông giảm đáng kể dẫn đến đầm bị thoái hóa. Hơn nữa đất không nhận được phù sa, mà còn bị khai thác quá mức bởi nhu cầu tăng vụ nên gây ra thoái hóa đất và dịch hại gia tăng, tồn lưu hóa chất độc trên đồng ruộng không được giải phóng, đặc biệt là những nơi có phèn. Tại tất cả các khu vực lấn biển, chất thải sinh hoạt từ các khu đô thị, khu dân cư và các chất thải khác của các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng thủy sản có khả năng gây ô nhiễm trên diện rộng, làm suy thoái môi trường và các hệ sinh thái biển ở các khu vực lân cận.

Dự án lấn biển tại khu vực Hòn Dấu (Hải Phòng)

   Đề xuất các giải pháp phát triển bền vững vùng ven bờ Việt Nam

   Các hoạt động lấn biển để mở rộng diện tích có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương và đất nước, tuy nhiên, để phát triển bền vững vùng ven bờ cần huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư xung quanh, cũng như các nhà quy hoạch, môi trường, sinh thái học và tổ chức xã hội.... trong đó, tập trung vào một số giải pháp: Xây dựng chiến lược quốc gia về các hoạt động, công trình lấn biển phục vụ phát triển kinh tế, có tính đến quy hoạch khai thác sử dụng đất, mặt nước và các tài nguyên vùng bờ Việt Nam, quy hoạch môi trường và ĐDSH; Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp theo các Luật Biển Việt Nam; Luật TN&MT biển, hải đảo; Luật BVMT; Luật Di sản; Luật Tài nguyên nước; Luật ĐDSH, Luật thủy sản các văn bản khác về chính sách môi trường, kinh tế xanh và phát triển bền vững; Các tỉnh, TP ven biển cần sớm ban hành quy hoạch vùng bờ, hành lang biển, chương trình quản lý tổng hợp vùng bờ; Xem xét đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi trường của từng hoạt động, công trình lấn biển, huy động sự tham gia góp ý và đánh giá của cộng đồng, các bên liên quan; Hàng năm kiểm kê, thống kê hiện trạng tài nguyên môi trường vùng ven bờ, hải đảo, lập các bản đồ về sinh vật và các HST ven bờ; Dự báo biến động môi trường biển trong bối cảnh dài hạn có tính đến tác động của các kịch bản lấn biển; Xây dựng mạng lưới thành phố môi trường ASEAN như TP. Đà Nẵng...; Huy động xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và phục hồi hệ sinh thái ven bờ của các cá nhân, tổ chức xã hội liên quan.

Dư Văn Toán

Viện Nghiên cứu biển và hải đảo

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 2/2016)

Ý kiến của bạn