Banner trang chủ

Tăng cường tính tự nguyện và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo các quy tắc quốc tế của Hiệp định thương mại tự do

06/08/2020

    Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) là một FTA thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU. EVFTA đã được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn vào ngày 8/6/2020 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/8/2020. Hiện nay, EU là một trong số thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này năm 2019 đạt 41,48 tỉ USD và nhập khẩu đạt 14,91 tỉ USD. Do vậy, Hiệp định sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường, thu được giá trị gia tăng cao hơn thông qua việc thiết lập các chuỗi cung ứng mới. Là một FTA thế hệ mới, do vậy bên cạnh các nội dung cam kết và nghĩa vụ mang tính chất truyền thống là hàng hóa và dịch vụ, EVFTA còn có các nội dung mới so với các FTA trước đây như sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường… EVFTA bao gồm 17 Chương và các nội dung liên quan đến môi trường của Hiệp định nằm tại Chương 17 về Phát triển bền vững. Mục đích của việc thiết lập các cam kết và nghĩa vụ liên quan đến môi trường trong EVFTA là hướng tới việc tăng cường tính tương tác giữa các chính sách về thương mại và các chính sách liên quan đến môi trường, đảm bảo các hoạt động thương mại và đầu tư trong khuôn khổ của Hiệp định sẽ không có tác động hoặc ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và hoạt động BVMT.

 

Lễ ký kết EVFTA vào ngày 30/6/2019 tại Hà Nội

 

Những nghĩa vụ chính liên quan đến môi trường được cam kết trong Hiệp định EVFTA

    Trong Chương phát triển bền vững, các cam kết, nghĩa vụ và thỏa thuận liên quan đến môi trường bao gồm một số lĩnh vực và hành động cụ thể như: Hiệp định quy định các nghĩa vụ về thực thi nghiêm túc, hiệu quả các Hiệp định đa phương liên quan đến môi trường (MEAs) mà các bên là thành viên gồm Công ước Đa dạng sinh học (CBD), Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES), Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC)... Hiệp định EVFTA cũng thiết lập mức độ BVMT, quy định nghĩa vụ các bên cần phải nỗ lực duy trì hoạt động BVMT ở mức cao và không được làm giảm hiệu lực pháp luật về môi trường nhằm thu hút thương mại, đầu tư. Mức độ BVMT do mỗi bên tự quyết định, tuy nhiên không được thấp hơn mức đã cam kết trong các MEAs. Đồng thời, Hiệp định cũng tăng cường tính tự nguyện và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh (CSR) theo các quy tắc quốc tế và hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD); Tăng cường bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên; Chống chặt phá rừng bất hợp pháp và chống khai thác đánh cá bất hợp pháp…

    EU là nhóm các quốc gia châu Âu phát triển, có yêu cầu rất cao, nghiêm ngặt về tiêu chuẩn, chất lượng, an toàn về môi trường đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Đối với hàng hóa và về vấn đề môi trường, EU đưa ra các quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan như sản phẩm phải được gắn nhãn CE (nhãn hiệu bắt buộc đối với hàng hóa (theo quy định) và được coi như hộ chiếu thương mại vào thị trường EU) mới được coi là đáp ứng các quy định về an toàn và môi trường, được lưu hành trên thị trường EU. Hiện nay, EU ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố thể hiện mức độ thân thiện với môi trường của sản phẩm và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong các hoạt động thương mại hàng hóa, dịch vụ.

    Như vậy, có thể nói, EU và Việt Nam đều coi trọng và đặt mục tiêu phát triển bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế với xã hội, BVMT. Các cam kết và nghĩa vụ về môi trường được thiết lập trong Hiệp định EVFTA đặt ra yêu cầu đòi hỏi trách nhiệm của Chính phủ, doanh nghiệp và mọi người dân trong việc thực thi nghiêm túc các nghĩa vụ đã cam kết này. Vì vậy, bên cạnh việc đáp ứng các yêu cầu và tiêu chuẩn về thương mại hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải tuân thủ, đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn cao về môi trường.

Những khó khăn và thách thức cần giải quyết

    Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và nguồn lực dành cho hoạt động BVMT còn hạn chế, việc thực thi một cách đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến môi trường được cam kết trong các FTA đặt ra những áp lực và thậm chí là rủi ro không nhỏ đối với Việt Nam, cụ thể:

    Hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường vẫn đang trong quá trình tiếp tục được hoàn thiện. Tuy đã có nhiều chính sách, pháp luật và môi trường được ban hành, nhưng khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực môi trường còn chưa đầy đủ và thậm chí còn chồng chéo trong một số lĩnh vực cụ thể, gây khó khăn cho việc thực thi các cam kết quốc tế;

    Thực thi chính sách và pháp luật về môi trường chưa thực sự hiệu quả như mong muốn. Mặc dù đã có các luật và nhiều quy định về BVMT cùng với việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt các vi phạm pháp luật về môi trường, nhưng hiện vẫn còn nhiều vi phạm pháp luật về môi trường được phát hiện, trong đó có những vụ việc vi phạm nghiêm trọng về môi trường;

    Nhận thức và ý thức về BVMT của một bộ phận còn chưa cao. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự gia tăng vi phạm pháp luật về BVMT. Thời gian qua, mặc dù đã có chuyển biến về nhận thức và ý thức BVMT, tuy nhiên xuất phát từ lý do phát triển kinh tế hoặc khó khăn về kinh tế mà ý thức BVMT của đa số người dân, doanh nghiệp, thậm chí ở một số cán bộ làm công tác quản lý vẫn còn nhiều hạn chế;

    Nguồn nhân lực thực thi, năng lực và kinh nghiệm của một số cán bộ trong việc xử lý các vấn đề thương mại quốc tế có liên quan đến môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Môi trường trong các FTA nói chung và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) nói riêng là nội dung mới. Hiện nhiều cán bộ quản lý nhà nước có liên quan chưa từng giải quyết hoặc được tiếp cận rất ít vấn đề này, do vậy những cán bộ này không có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong xử lý các vấn đề môi trường liên quan đến thương mại quốc tế;

    Nguồn lực về tài chính dành cho hoạt động BVMT còn rất hạn chế. Khó khăn về tài chính sẽ dẫn đến việc không có sự đầu tư thỏa đáng cho các công nghệ hiện đại và các đầu tư khác cho hoạt động BVMT. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc đáp ứng và tuân thủ các nghĩa vụ và tiêu chuẩn cao đã cam kết trong các FTA điển hình như Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA.

    Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường chưa hoàn thiện, cùng với việc xóa bỏ dần các rào cản thương mại, việc nhập khẩu hàng hóa, vật tư, công nghệ trong điều kiện quy định tiêu chuẩn về môi trường còn thấp và năng lực kiểm soát tuân thủ còn chưa chặt chẽ sẽ dẫn đến nguy cơ Việt Nam trở thành bãi chứa các thiết bị, dây chuyền lạc hậu, là nơi tiêu thụ các loại hàng hóa kém chất lượng.

    Đối với khu vực tư nhân, cụ thể là các doanh nghiệp, việc đầu tư tài chính để đối mới công nghệ sản xuất và đầu tư xử lý chất thải nhằm đáp ứng  các tiêu chuẩn về môi trường của quốc tế và trong nước sẽ là những khó khăn và thách thức to lớn trong thời gian tới nếu muốn phát triển mở rộng thị trường và thị phần xuất khẩu ra nước ngoài.

Một số vấn đề về môi trường Nhà nước và doanh nghiệp cần quan tâm

Đối với cơ quan quản lý nhà nước

    Trong thời gian tới Việt Nam cần chuẩn bị, sẵn sàng cho việc thực thi các cam kết và nghĩa vụ về môi trường của Hiệp định EVFTA. Trước tiên cần phải có một kế hoạch hành động cụ thể, toàn diện nhằm giải quyết những khó khăn, thách thức nêu trên, trong đó cần quan tâm giải quyết những vấn đề chính sau:

    Thứ nhất, hoàn thiện chính sách, pháp luật, rà soát sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước, tương thích với các cam kết, nghĩa vụ về môi trường trong các hiệp định MEAs; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường nhằm đảm bảo sự phù hợp, tiệm cận với hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn của khu vực và quốc tế.

    Thứ hai, tăng cường đầu tư cho hoạt động quan trắc, kiểm soát ô nhiễm môi trường; tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát việc chấp hành quy định pháp luật về BVMT, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt đối với các ngành, lĩnh vực có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao, tăng cường trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan, tăng các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BVMT.

   Thứ ba, tăng cường nguồn lực (nhân lực và tài chính), đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về thương mại liên quan đến môi trường và môi trường liên quan đến thương mại, cũng như tăng cường năng lực, trình độ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, bao gồm cả tranh chấp liên quan đến môi trường cho đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ, chuyên gia pháp lý của các Bộ, ngành liên quan; Đầu tư cho các công trình, hoạt động BVMT; xây dựng cơ chế khuyến khích khối tư nhân tham gia vào ngành công nghiệp môi trường nhằm tận dụng các nguồn lực cho BVMT.

    Thứ tư, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tổ chức thông tin, tuyên truyền rộng rãi theo phương thức đơn giản, dễ hiểu về việc tuân thủ các cam kết, nghĩa vụ quốc tế về môi trường trong các MEAs và các FTA, trong đó có Hiệp định EVFTA cho mọi thành phần và đối tượng, đặc biệt cho đối tượng là các doanh nghiệp; thông tin về hậu quả, tác động của việc vi phạm các cam kết, nghĩa vụ của Hiệp định này, đồng thời khuyến khích sự tham gia của người dân, doanh nghiệp trong các hoạt động BVMT; tổ chức tập huấn, nâng cao năng lực về hội nhập quốc tế cho doanh nghiệp. 

    Thứ năm, thiết lập cơ chế phối hợp giải quyết các vấn đề môi trường trong EVFTA. Nội dung các cam kết và nghĩa vụ về môi trường trong EVFTA liên quan đến nhiều Bộ, ngành và lĩnh vực. Vì vậy, để đảm bảo thực thi nghiêm túc, hiệu quả các cam kết, nghĩa vụ này cần phải thiết lập các cơ chế phối hợp, hợp tác liên ngành ở Trung ương, địa phương và giữa Trung ương với địa phương. Bên cạnh việc phối hợp, hợp tác thực thi các cam kết, nghĩa vụ, các cơ chế phối hợp này còn đặc biệt cần thiết, quan trọng khi phải giải quyết các vấn đề phát sinh như các tranh chấp về thương mại quốc tế liên quan đến môi trường trong quá trình thực hiện.

    Thứ sáu, hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin liên quan đến các chính sách về môi trường của nước ngoài và quốc tế, kịp thời dự báo những thay đổi về chính sách môi trường và các tác động liên quan. Những thông tin thay đổi chính sách cùng với những dự báo về tác động ở các quốc gia, thị trường quan trọng đối với Việt Nam là quan trọng đối với doanh nghiệp và cần được sự hỗ trợ của Nhà nước để doanh nghiệp có những biện pháp ứng phó và điều chỉnh phù hợp nhằm tránh hoặc giảm thiểu các tác động tiêu cực và thiệt hại cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và hoạt động thương mại.

    Thứ bảy, cung cấp thông tin và đưa ra các khuyến nghị liên quan đến công nghệ môi trường. Những thông tin hay khuyến nghị về công nghệ môi trường nhằm giúp cho doanh nghiệp có được sự lựa chọn công nghệ phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn của Nhà nước, cũng như phù hợp với mô hình sản xuất và điều kiện kinh tế của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong công tác BVMT trong sản xuất và hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh.

Đối với doanh nghiệp

    Để tiếp tục duy trì chỗ đứng trên thị trường ở trong nước và quốc tế, mở rộng và phát triển hàng hóa, dịch vụ sang thị trường các nước phát triển, doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng quan tâm các nội dung:

   Nghiêm túc tuân thủ và thực hiện quy định pháp luật trong nước và quốc  tế về BVMT; nâng cao ý thức, trách nhiệm BVMT trong hoạt động sản xuất và kinh doanh; chủ động áp dụng các tiêu chuẩn môi trường của các nước tiên tiến hoặc được quốc tế công nhận rộng rãi.

    Cần tìm hiểu kỹ, nắm bắt thông tin về yêu cầu, điều kiện và các tiêu chuẩn về môi trường đối với sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của các nước, thị trường phát triển mà doanh nghiệp dự định xuất khẩu hàng hóa sang; theo dõi và cập nhật kịp thời thông tin về thị trường (bao gồm cả thông tin liên quan đến chính sách và tiêu chuẩn về môi trường).

    Áp dụng mô hình quản lý tiến bộ trong sản xuất và trong hoạt động BVMT (theo tiêu chuẩn ISO); đầu tư đổi mới công nghệ tiên tiến, ít phát thải để vừa tạo ra sản phẩm cạnh tranh, thân thiện với môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường của các quốc gia, thị trường phát triển.

    Ngoài việc tuân thủ các quy chuẩn về môi trường trong nước, doanh nghiệp cũng cần chú trọng việc xây dựng các tiêu chuẩn môi trường (tự nguyện) theo hướng hội nhập quốc tế cho các sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là các sản phẩm hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu sang các thị trường phát triển.

    Chú trọng việc đăng ký nhãn sinh thái và công tác đầu tư nhằm tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường, vừa BVMT và tạo điều kiện để mở rộng thị phần và thị trường đối với các sản phẩm hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu.

    Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần tích cực và chủ động tham gia vào một số cơ chế liên quan đến BVMT được quốc tế công nhận và sử dụng rộng rãi hiện nay, ví dụ như Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Resonsiblity - CSR), Trách nhiệm mở rộng đối với sản phẩm của nhà sản xuất (Expanded Producer Responsibility - EPR).

 

Hoàng Xuân Huy

Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ TN&MT

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 7/2020)

Ý kiến của bạn