Banner trang chủ

Đề xuất một số giải pháp quản lý hiệu quả chất thải rắn sinh hoạt

19/08/2019

     Trong thời gian gần đây, việc phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị, dịch vụ tập trung, cùng với tốc độ gia tăng dân số đã tạo nên những áp lực đối với công tác quản lý chất thải rắn (CTR) nói chung và chất thải rắn sinh hoạt  (CTRSH) nói riêng trên toàn quốc. Thực tế trên cho thấy, công tác quản lý, thu gom, xử lý CTRSH đã bộc lộ nhiều bất cập cần sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương trong việc đề ra giải pháp đồng bộ nhằm quản lý phù hợp và hiệu quả.

     Tình trạng phát sinh, gia tăng CTRSH

     Theo báo cáo của các Sở TN&MT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lượng CTRSH phát sinh hiện nay tại các khu đô thị khoảng 38.000 tấn/ngày và tại khu vực nông thôn 32.000 tấn/ngày. Trong đó, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải tại khu vực đô thị đạt 85,5 %; khu vực nông thôn đạt 40-55%. Tính theo khu vực, miền Đông Nam bộ là khu vực có mức phát sinh CTRSH cao nhất trong cả nước, tiếp đến là đồng bằng sông Hồng; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung; đồng bằng sông Cửu Long; Trung du và miền núi phía Bắc; khu vực Tây Nguyên.

     Lượng CTRSH đô thị phát sinh chủ yếu từ các hộ gia đình, khu vực công cộng (đường phố, chợ, trung tâm thương mại, văn phòng, cơ sở nghiên cứu, trường học...). CTRSH  đô thị có tỷ lệ hữu cơ chiếm 54 - 77%, chất thải có thể tái chế (thành phần nhựa và kim loại) chiếm 8 - 18%. Đối với CTRSH nông thôn, tỷ lệ chất thải hữu cơ khá cao, chiếm khoảng 55 - 69%, chất thải có thể tái chế chiếm 7 - 16%, phần còn lại chủ yếu là chất trơ từ 12 - 36% và chất thải nguy hại (CTNH) khoảng 1,8%.

     Do hầu hết, lượng CTRSH chưa được phân loại tại nguồn nên gây khó khăn cho công tác xử lý. Mặc dù, nhiều địa phương trên cả nước đã ban hành quy định về phân loại CTRSH tại nguồn nhưng đến nay, việc triển khai trong thực tế còn chưa được quan tâm, chú trọng nên hiệu quả còn thấp, không có tính khả thi trong thực tiễn. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác hướng dẫn, triển khai phân loại chưa toàn diện; trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng, kỹ thuật còn thiếu, lạc hậu, không có tính liên kết, đồng bộ với việc phân loại.

     Bên cạnh đó, công tác vận chuyển còn gặp nhiều khó khăn, các bãi chôn lấp chất thải thường ở xa khu dân cư làm tăng chi phí vận chuyển. Trong khi mức phí vệ sinh môi trường thu từ các hộ gia đình hiện nay mới chỉ chi trả được một phần cho hoạt động thu gom chất thải, không đủ để chi trả cũng như duy trì cho hoạt động vận chuyển. Phương pháp xử lý CTRSH phổ biến hiện nay là chôn lấp (khoảng 70%), trong đó chỉ có khoảng 30% các bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Các phương pháp xử lý khác bao gồm sản xuất thành phân mùn hữu cơ (compost) và đốt, một số địa phương hiện đang đầu tư và vận hành lò đốt thu hồi năng lượng để phát điện. Nhìn chung, công tác quản lý CTRSH chưa đáp ứng được yêu cầu về BVMT; chất thải chưa được quản lý, xử lý một cách phù hợp, đây chính là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí.

     Một số tồn tại, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về CTRSH

     Trước đây, CTR nói chung và CTRSH nói riêng được giao cho nhiều Bộ, ngành cùng tham gia quản lý. Ở cấp Trung ương, Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về BVMT. Đối với CTRSH, Bộ TN&MT có trách nhiệm: Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật, quy trình quản lý trong việc phân loại, lưu giữ, tập kết, trung chuyển, vận chuyển, sơ chế, tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng lượng từ CTRSH; tổ chức quản lý, kiểm tra các hoạt động  BVMT về quản lý CTRSH. Bộ Xây dựng có trách nhiệm về hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH theo quy hoạch được phê duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH…

     Ở cấp địa phương, UBND cấp tỉnh ban hành các quy định cụ thể về quản lý CTR cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế  -  xã hội của địa phương; lập và tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch xử lý CTR; lập kế hoạch hàng năm cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH và bố trí kinh phí thực hiện phù hợp. Một số địa phương phân công Sở Xây dựng chủ trì tổ chức quản lý và triển khai hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; một số địa phương khác,  Sở TN&MT chủ trì tổ chức quản lý CTRSH. Tuy nhiên, ở cấp huyện hầu hết đều phân công Phòng TN&MT chủ trì tổ chức quản lý và triển khai hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH. Từ thực tế trên cho thấy, việc quản lý CTR theo từng phân đoạn, chưa thống nhất và đồng bộ trong quản lý chất thải từ Trung ương tới địa phương dẫn đến hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.

     Đối với việc xây dựng các cơ sở xử lý chất thải hiện đại, bãi chôn lấp CTRSH hợp vệ sinh đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, nhiều địa phương không đủ nguồn vốn đầu tư cho việc xử lý CTR tập trung. Cơ chế thúc đẩy xã hội hóa công tác thu gom, xử lý CTRSH còn thiếu và chưa thu hút được các nguồn lực đầu tư cho thu gom, xử lý CTR; hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý mang tính chất cộng đồng nên chưa thúc đẩy được tính chuyên nghiệp của các tổ dịch vụ, hợp tác xã, công ty dịch vụ môi trường. Chất lượng của công tác quy hoạch chưa cao; dự báo chưa có cơ sở, việc xác định vị trí, địa điểm xây dựng cơ sở xử lý chất thải gặp khó khăn do chưa có sự đồng thuận của người dân; quy hoạch thiếu yếu tố liên kết vùng; việc tổ chức triển khai quy hoạch quản lý CTR đã phê duyệt tại các địa phương còn chậm, thiếu nguồn lực để thực hiện quy hoạch; đặc biệt nhiều tỉnh bố trí cơ sở xử lý CTRSH (cụ thể là các bãi chôn lấp và các lò đốt) ở quy mô cấp xã là chưa phù hợp.

     Về công nghệ, hầu hết công nghệ xử lý CTR nhập khẩu không phù hợp với đặc điểm CTRSH tại Việt Nam như chưa được phân loại tại nguồn, nhiệt trị thấp, độ ẩm cao. Trong khi đó, thiết bị, công nghệ xử lý CTR chế tạo trong nước chưa đồng bộ và hoàn thiện, chưa được sản xuất ở quy mô công nghiệp. Hiện đang còn thiếu các hướng dẫn lựa chọn công nghệ, hướng dẫn kỹ thuật phù hợp về thu gom, lưu giữ, xử lý CTRSH.

 

Hoạt động phân loại rác thải sinh hoạt tại Nhà máy xử lý CTR Ninh Bình

 

     Trong khi đó, mô hình thu gom, xử lý, tái chế CTR còn mang tính nhỏ lẻ, tự phát, thiếu sự quản lý và kiểm soát của các cơ quan hữu quan có thẩm quyền về  BVMT ở địa phương. Phần lớn, các cơ sở tái chế có quy mô nhỏ, mức độ đầu tư công nghệ không cao, đa số công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ, gây ô nhiễm môi trường thứ cấp. Ngoài ra, do đặc thù khu vực nông thôn là chất thải phân tán nên các mô hình thu gom đa dạng nhưng phần lớn là quy mô nhỏ (do hợp tác xã, đơn vị tư nhân tự tổ chức thu gom), phương tiện thu gom còn thô sơ.

     Mặt khác, nhận thức của người dân trong thu gom, phân loại CTR còn nhiều hạn chế. Chất thải chưa được phân loại, tận dụng phần có ích để tái chế. Nhiều nơi, người dân chưa tích cực tham gia vào các hoạt động thu gom, phân loại CTR, chưa đóng phí vệ sinh môi trường đầy đủ.

     Đề xuất giải pháp quản lý hiệu quả

     Để khắc phục những tồn tại, bất cập nhằm đưa công tác quản lý CTR đi vào nề nếp, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 3/2/2019, Chính phủ đã giao BộTN&MT là cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý nhà nước về CTR; giao Chủ tịch UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề rác thải và xử lý rác thải trên địa bàn.

     Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ TN&MT đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện phương án thống nhất quản lý nhà nước về CTR. Trên cơ sở rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến công tác quản lý nhà nước về CTR, Bộ TN&MT đã tổ chức các cuộc họp, làm việc với các Bộ, ngành liên quan và đã có báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ về hiện trạng và đề xuất giải pháp, phương án sửa đổi, bổ sung để thực hiện phương án thống nhất quản lý nhà nước về CTR. Đồng thời, Bộ TN&MT đã xây dựng và tổ chức kế hoạch kiểm tra, đánh giá công tác quản lý CTR trên phạm vi cả nước. Theo đó, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với Sở TN&MT thuộc 63 tỉnh, thành phố kiểm tra, rà soát công tác thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH tại 760 cơ sở trên phạm vi cả nước, bao gồm: Rà soát, đánh giá công tác quản lý nhà nước về CTR tại các địa phương (công tác quy hoạch; cơ chế, chính sách về quản lý chất thải do các địa phương ban hành; công nghệ xử lý đang áp dụng; vấn đề ô nhiễm môi trường do hoạt động xử lý CTR gây ra; đơn giá, định mức thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải; vướng mắc, khó khăn của địa phương; kiểm tra, đánh giá các cơ sở xử lý CTRSH trên phạm vi cả nước). Kết quả kiểm tra, đánh giá về CTRSH là cơ sở để Bộ TN&MT tổ chức Hội nghị toàn quốc về CTR trong thời gian tới.

     Căn cứ vào kết quả của các hoạt động nêu trên và kết quả của Hội nghị toàn quốc, Bộ TN&MT sẽ xây dựng Đề án tăng cường năng lực quản lý CTR tại Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Đề án dự kiến sẽ bao gồm các giải pháp để tăng cường năng lực quản lýCTR, trong đó có những giải pháp về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải, góp phần hạn chế tình trạng lãng phí tài nguyên, quỹ đất, ngân sách và môi trường, cụ thể như:

     Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý CTR , trong đó quán triệt quan điểm chất thải phát sinh phải được quản lý theo hướng phân loại, thu gom phù hợp với công nghệ xử lý được lựa chọn; khuyến khích xử lý chất thải thành nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm thân thiện môi trường, xử lý chất thải kết hợp với thu hồi năng lượng, tiết kiệm đất đai và phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng địa phương.

     Thứ hai, tăng cường phát triển nguồn nhân lực đảm bảo yêu cầu quản lý; tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ; huy động nguồn lực toàn xã hội trong công tác giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý CTR.

     Thứ ba, nghiên cứu, xây dựng và triển khai các mô hình quản lý về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; thí điểm các mô hình về đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý chất thải tại một số địa phương.

     Thứ tư, xây dựng và ban hành danh mục công nghệ xử lý CTRSH khuyến khích áp dụng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của các địa phương, trong đó chú trọng các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải, hạn chế tối đa lượng chất thải phải chôn lấp.

     Thứ năm, tăng cường xây dựng và triển khai các hoạt động truyền thông, đào tạo, nâng cao năng lực và nhận thức cộng đồng về quản lý CTRSH.

     Thứ sáu, xây dựng và triển khai mô hình phân loại CTRSH tại nguồn phù hợp với các công nghệ xử lý chất thải; đặc biệt là việc phân loại để làm cơ sở cho việc áp dụng các công nghệ thu hồi năng lượng từ chất thải như đốt rác phát điện.

 

Trần Thị Ngọc Linh

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 7/2019)

 

 

 

 

 

Ý kiến của bạn