Banner trang chủ
Thứ Sáu, ngày 27/12/2024

Nghiên cứu khả năng ứng dụng vật liệu nano TiO2 trong xử lý nước nhiễm dầu diesel

11/07/2017

     Tóm tắt

     Nghiên cứu này tập trung vào việc khảo sát khả năng ứng dụng chất xúc tác quang nano TiO2 để phân hủy dầu diesel phân tán trong nước. Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở xác định sự suy giảm nồng độ của dầu trong nước với sự có mặt của vật liệu nano TiO2 sau một thời gian chiếu xạ bởi tia cực tím. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dầu diesel phân tán trong nước bị phân hủy dưới điều kiện chiếu xạ khi có mặt TiO2. Các yếu tố như độ pH, nồng độ của TiO2, nồng độ của dầu và thời gian chiếu xạ đều có ảnh hưởng rõ rệt đến mức độ phân hủy của dầu diesel phân tán trong nước.

     Từ khóa: Xử lý nước, vật liệu nano, TiO2, dầu diesel, xúc tác quang.

Stydy on the application of TiO2 nano materials in diesel oil polluted water treatment

Lư Thị Yến, Phạm Thị Huệ

University of Transport Technology

Nguyễn Thành Đông

Ha Noi University of Science and Technology

 

Abstract

     This study focused on exploring the potential application of nano TiO2 photocatalyst to decompose diesel oil dispersed in water. The study was conducted on the basis of determining the decrease of diesel’s concentration in the presence of nano TiO2 over time when it is irradiated by ultraviolet. Research results showed that: diesel oil dispersed in water was decomposed under irradiation conditions with the presence of TiO2. Some factors such as pH value, concentration of TiO2, initial concentration of diesel and irradiation time significantly influenced the decomposition degree of diesel oil dispersed in water.

Key word: Water treatment, nano materials, TiO2, diesel oil, photo catalysis.

     1. Đặt vấn đề

     Dầu diesel là sản phẩm của quá trình chưng cất dầu mỏ ở nhiệt độ 250 - 350 oC với thành phần chính là các hợp chất hydrocacbon có số nguyên tử cacbon từ 16 - 22 và một lượng nhỏ các hợp chất iso-paraphin và olephin [1]. Khi bị lẫn trong nước, dầu diesel thường tích tụ thành từng đám nổi trên mặt nước hoặc phân tán đều do các quá trình khuếch tán, hòa tan và nhũ tương hóa, gây độc hại nghiêm trọng cho hệ sinh thái dưới nước, làm suy giảm giá trị sử dụng và gây ảnh hưởng lâu dài tới môi trường nước.

     Để xử lý dầu nổi trên mặt nước có thể áp dụng các biện pháp đơn giản như bơm hút hoặc dùng các chất có khả năng thấm hút dầu để thu gom. Với dạng dầu phân tán trong nước, do không thể xử lý một cách cơ học như dầu nổi nên việc xử lý chúng khó khăn hơn và phải dựa trên cơ sở của các biện pháp phân hủy bằng hóa học, sinh học...

     Trong những năm gần đây, việc sử dụng các hợp chất có hoạt tính xúc tác quang như TiO2, ZnO, CdS và Fe2O3... để chuyển hóa các hợp chất hữu cơ khó phân hủy trong môi trường thành các chất ít độc hại hoặc không độc hại đang thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Trong số đó, vật liệu nano TiO2 được trú trọng hơn cả do TiO2 có hoạt tính xúc tác quang cao, không độc hại, trơ về mặt hóa học và hoàn toàn có thể ứng dụng trong môi trường tự nhiên vì cơ chế của phản ứng quang hóa này có thể xảy ra dưới tác dụng của nguồn chiếu xạ tia tử ngoại (UV) tự nhiên từ ánh sáng mặt trời.

     Cơ chế phân hủy các hợp chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường của hệ xúc tác quang TiO2 diễn ra như sau: Khi vật liệu nano TiO2 được kích thích bởi ánh sáng có bước sóng thích hợp sẽ sinh ra các electron quang sinh () và lỗ trống quang sinh (). Các  và  sẽ tương tác với các hợp chất hấp phụ trên bề mặt hạt TiO2 và hình thành một hoặc nhiều gốc hoạt tính như •OH, •O2- và các sản phẩm trung gian như H2O2, O2...(hình 1). Các gốc và sản phẩm trung gian này sẽ trở thành các tác nhân để oxy hóa các thành phần hữu cơ (R) theo phản ứng:

R  +•OH→R•  +  H2O

R•+  •OH  → H2O +  CO2  + axit vô vơ

     Như vậy, thông qua hệ xúc tác quang TiO2, các chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường đã bị phân hủy thành H2O, CO2 và các chất vô cơ ít độc hại hơn [2,3].

     Trên thế giới, đã có một số công trình nghiên cứu chế tạo vật liệu nano TiO2 để xử lý nước nhiễm dầu [4-6] nhưng hiệu quả xử lý còn khá hạn chế hoặc thời gian xử lý khá lâu. Hsu và nhóm nghiên cứu [4] đã sử dụng vật liệu nano TiO2 dạng ống làm chất xúc tác quang để xử lý dầu lẫn trong nước biển, dưới bức xạ của ánh sáng mặt trời, hợp chất Toluen trong dầu đã bị phân hủy nhưng chỉ đạt hiệu suất khoảng 10% sau thời gian 120 phút. Roberta [6] sử dụng bột nano TiO2 để xử lý dầu thô lẫn trong nước biển, hiệu suất xử lý tốt nhưng thời gian chiếu xạ phải kéo dài đến 7 ngày.

     Để tiếp tục có những nghiên cứu trong việc xử lý nước nhiễm dầu bằng vật liệu nano TiO2, nghiên cứu này đã lựa chọn một loại vật liệu nano TiO2 thương phẩm (P25) làm chất xúc tác quang để phân hủy dầu diesel lẫn trong nước. Kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở khoa học để ứng dụng loại chất xúc tác quang nano TiO2 và các hợp chất tương tự  trong việc xử lý nước lẫn dầu diesel.

 

     Hình 1. Sơ đồ biểu diễn cơ chế xúc tác quang của vật liệu TiO2

 

     2. Phương pháp nghiên cứu

     2.1. Hóa chất thí nghiệm

     Vật liệu nano TiO2: Với mục đích chính là nghiên cứu khả năng ứng dụng vật liệu nano TiO2 trong xử lý nước lẫn dầu diesel nên nghiên cứu này sử dụng trực tiếp vật liệu nano TiO2 do hãng Degussa (Đức) sản xuất, có tên thương phẩm là P25 với độ tinh khiết đạt trên 99,5%, kích thước trung bình của hạt là 21nm.

     Nước lẫn dầu diesel được chuẩn bị bằng cách cho pha nước cất với dầu diesel theo các tỷ lệ nhất định, đậy kín bình và khuấy hỗn hợp trên máy khuấy từ ở tốc độ 1000 vòng/phút, nhiệt độ 60oC trong thời gian 30 phút. Hỗn hợp sau khuấy trộn được bảo quản trong bóng tối 15 ngày để hệ đạt trạng thái cân bằng [7].

     2.2. Thiết lập hệ thống chiếu xạ

     Thí nghiệm chiếu xạ bằng đèn cực tím được bố trí trong buồng phản ứng như hình 2. Buồng phản ứng gồm một tủ sắt có cửa đóng kín và được sơn đen mặt trong để đảm bảo độ tối khi pha mẫu và tránh tia tử ngoại bức xạ ra bên ngoài. Nguồn phát tia tử ngoại là đèn cực tím công suất 15W. Đèn được bố trí cố định ngay phía trên gần bề mặt dung dịch phản ứng nhằm cung cấp photon cho quá trình quang xúc tác. Cốc thủy tinh chứa dung dịch phản ứng được khuấy trộn bằng máy khuấy từ để đảm bảo độ phân tán đồng đều của vật liệu nano TiO2 trong dung dịch và tăng cường sự tiếp xúc giữa các trung tâm phản ứng trên bề mặt hạt TiO2 với photon trong thời gian chiếu xạ.

 

Hình 2. Mô hình chiếu xạ bằng đèn cực tím

 

     2.3. Xác định khả năng phân hủy dầu diesel phân tán trong nước của nano TiO2

     Cho vật liệu nano TiO2 vào nước lẫn dầu rồi điều chỉnh pH của dung dịch bằng NaOH hoặc HNO3. Khuấy hỗn hợp bằng máy khuấy từ trong bóng tối 30 phút để hệ đạt trạng thái cân bằng, sau đó bật đèn cực tím để tiến hành phản ứng dưới điều kiện chiếu xạ tia tử ngoại. Mẫu được lấy ở các thời điểm khác nhau và được tách bột nano TiO2 bằng phương pháp ly tâm. Hàm lượng dầu được xác định bằng thiết bị phân tích dầu trong nước TD500D. Căn cứ vào mức độ suy giảm nồng độ của dầu sau thời gian chiếu xạ để đánh giá khả năng phân hủy dầu diesel phân tán trong nước của nano TiO2.

     Mức độ phân hủy dầu diesel được xác định theo công thức:

 

 

     Trong đó, C0 và Ct lần lượt là nồng độ của dầu diesel (mg/l) ban đầu và sau thời gian t bị quang phân bởi tia tử ngoại với sự có mặt của chất xúc tác quang nano TiO2.

     3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

     3.1. Ảnh hưởng của pH

     Thí nghiệm được tiến hành với hỗn hợp nước lẫn dầu có nồng độ ban đầu là 40mg/l, hàm lượng nano TiO2 là 0,02g/100ml, độ pH của hỗn hợp điều chỉnh từ 1,0÷11,0, thời  gian chiếu xạ 10 tiếng.

     Các số liệu thí nghiệm trong Bảng 1 và đồ thị trong Hình 3 cho thấy hiệu quả phân hủy dầu diesel trong môi trường kiềm tốt hơn trong môi trường axit. Trong môi trường kiềm mạnh (pH = 9÷11), hiệu quả phân hủy dầu diesel có thể đạt mức 76%, còn trong môi trường axit mạnh (pH = 1÷3) thì hiệu quả phân hủy thấp hơn nhiều, chỉ đạt khoảng 30 - 50%. Trong môi trường trung tính (pH = 7), hiệu quả phân hủy đạt mức 60%, cao hơn môi trường axit mạnh nhưng vẫn thấp hơn môi trường kiềm mạnh.

     Bảng 1. Ảnh hưởng của pH đến hiệu quả phân hủy dầu diesel trong nước

STT

pH

Mức độ phân hủy dầu diesel , %

1

1.1

29.0

2

2.9

31.3

3

5.2

49.5

4

6.9

60.5

5

9.0

76.0

6

11.2

76.3

 

 

     Nguyên nhân của sự tăng cường hiệu quả phân hủy dầu diesel trong môi trường kiềm có thể giải thích là do khi tăng nồng độ kiềm thì nồng độ ion OH- trong dung dịch cũng tăng lên một cách tương ứng. Khi tiếp xúc với bề mặt chất xúc tác, các ion OH- sẽ phản ứng với các hố trống quang sinh để tạo thành gốc hoạt tính •OH theo sơ đồ:

TiO2() + OH-→•OH + TiO2

     Như vậy, khi nồng độ ion OH- càng tăng thì gốc •OH sinh ra càng nhiều hơn. Việc tăng nồng độ gốc •OH đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả phản ứng quang phân do gốc •OH là một tác nhân oxy hóa rất mạnh (thế oxi hóa E = 2,8 eV), không chọn lọc và có khả năng oxy hóa nhanh chóng hầu hết các chất hữu cơ [8]. Tuy nhiên, khi nồng độ kiềm quá cao thì khả năng phân hủy dầu diesel có xu hướng giảm đi do bề mặt chất xúc tác bị phá hủy bởi môi trường kiềm mạnh theo phản ứng:

TiO2 + OH-→TiO- + H2O

     Như vậy, thí nghiệm này cho thấy phản ứng phân hủy dầu diesel đạt hiệu quả cao nhất trong môi trường kiềm có giá trị pH trong khoảng 9÷11. Tuy nhiên, trên thực tế, việc điều chỉnh pH lên quá cao sẽ tốn chi phí hóa chất và lại gây nên một ảnh hưởng khác đến chất lượng môi trường nước. Trong môi trường trung tính, mặc dù hiệu quả phân hủy có suy giảm so với môi trường kiềm song vẫn đạt mức 60% nên việc áp dụng phương án thực hiện phản ứng trong môi trường trung tính sẽ đem đến sự cân bằng cả trong hiệu quả xử lý lẫn trong chi phí xử lý và mức độ thân thiện môi trường của biện pháp thực hiện.

     3.2. Ảnh hưởng của hàm lượng chất xúc tác

     Thí nghiệm được tiến hành với hỗn hợp nước lẫn dầu có nồng độ ban đầu là 18mg/l, môi trường trung tính, hàm lượng nano TiO2 thay đổi từ (0,01-0,12)g/100ml, thời  gian chiếu xạ 6 tiếng. Kết quả thí nghiệm được trình bày trong Bảng 2 và Hình 4.

     Bảng 2. Ảnh hưởng của hàm lượng chất xúc tác đến hiệu quả phân hủy dầu diesel trong nước

STT

Hàm lượng TiO2, g/100ml

Mức độ phân hủy dầu diesel sau thời gian chiếu xạ, %

2h

4h

5h

6h

1

0.01

21.1

31.7

32.8

33.3

2

0.02

35.0

51.1

52.2

52.8

3

0.04

48.9

64.4

65.0

65.0

4

0.08

46.7

62.8

62.2

61.7

5

0.12

44.4

61.1

60.5

 

 
 

    Hình 4. Ảnh hưởng của hàm lượng TiO2 đến hiệu quả phân hủy dầu diesel sau các thời gian chiếu xạ khác nhau

 

     Theo kết quả thực nghiệm, sau 6 tiếng chiếu xạ, khi hàm lượng TiO2 trong hỗn hợp tăng từ 0.01 g/100 ml lên 0.04 g/100 ml thì hiệu quả phân hủy dầu diesel tăng mạnh từ 33% lên 65%, nhưng khi tiếp tục tăng hàm lượng chất xúc tác lên 0.08 g/100 ml và 0.12 g/100 ml thì hiệu quả phân hủy lại có xu hướng giảm nhẹ đến giá trị tương ứng là 62% và 60%.

     Trong trường hợp này, khi tăng hàm lượng chất xúc tác thì diện tích bề mặt hấp phụ cũng tăng lên và đồng thời làm tăng cả số lượng trung tâm hoạt động trên bề mặt chất xúc tác. Tuy nhiên, không phải tất cả các trung tâm hoạt động này đều tham gia vào phản ứng oxi hóa phân tử hợp chất hữu cơ bị hấp phụ lên chúng, mà chỉ những trung tâm nào bị kích thích bởi các photon có năng lượng thích hợp thì mới có khả năngtham gia vào chuỗi các phản ứng để tạo thành các gốc hoạt tính •OH. Khi pha chất xúc tác vào trong hỗn hợp nước lẫn dầu, do cấu trúc tinh thể anatase và rutile của TiO2 thuộc hệ tứ phương, bất đẳng hướng quang học nên nồng độ của nó càng cao sẽ càng làm tăng độ đục của hỗn hợp chất phản ứng, dẫn đến khả năng truyền ánh sáng trong dung dịch bị suy giảm. Vì vậy, khi tăng hàm lượng chất xúc tác đến một giá trị nhất định thì số lượng các trung tâm hoạt động được kích thích bởi các photon sẽ đạt giá trị lớn nhất, tương ứng với nó là hiệu quả phân hủy dầu cũng sẽ đạt mức cao nhất. Đây là nguyên nhân tại sao trong nghiên cứu này hàm lượng chất xúc tác tối ưu đạt trị số là 0.04g/100 ml. Nhiều công trình nghiên cứu khác cũng thu được kết quả tương tự khi đánh giá ảnh hưởng của khối lượng chất xúc tác đến hiệu quả phân hủy hợp chất hữu cơ [8,10].

     Bên cạnh đó, thí nghiệm này cũng cho thấy ảnh hưởng của thời gian chiếu xạ đến hiệu quả phân hủy. Với hàm lượng chất xúc tác là 0.04g/100ml, khi tăng thời gian chiếu xạ thì lúc đầu hiệu suất phân hủy tăng nhanh, nhưng sau thời gian chiếu xạ 4 giờ thì hiệu suất phân hủy không tăng lên được nữa. Điều này chứng tỏ, khi mới bắt đầu chiếu xạ, do số lượng các trung tâm hoạt động được chuyển hóa thành gốc hoạt tính •OH nhiều nên hiệu suất phân hủy tăng nhanh. Tuy nhiên, càng kéo dài thời gian chiếu xạ thì số lượng các trung tâm hoạt động sẽ càng giảm đi làm hiệu suất phân hủy tăng với mức độ chậm dần và đạt đến mức cân bằng sau khi tất cả các trung tâm hoạt động đều đã được chuyển hóa thành gốc hoạt tính •OH.

     Việc kéo dài thời gian chiếu xạ từ 4 giờ lên 6 giờ mà không tăng được hiệu suất phân hủy của dầu phân tán trong nước như kết quả thí nghiệm trong Bảng 2 và Hình 4 đã nêu còn cho thấy, khi không còn trung tâm hoạt động trong hỗn hợp, hay nói cách khác là khi không có mặt của chất xúc tác TiO2, thì dầu diesel sẽ không bị phân hủy dưới tác động của tia tử ngoại. Kết quả phân tích và những thảo luận này đã làm rõ được vai trò của chất xúc tác quang trong việc phân hủy dầu diesel.

     3.3. Ảnh hưởng bởi nồng độ ban đầu của dầu diesel

     Thí nghiệm được tiến hành với hỗn hợp nước lẫn dầu có nồng độ ban đầu thay đổi từ (18-50) mg/l, hàm lượng nano TiO2 chọn giá trị tối ưu là 0.04g/100 ml, pH = 6.8, thời  gian chiếu xạ 10 tiếng.

     Kết quả thực nghiệm cho thấy, trong khoảng giá trị nồng độ ban đầu của dầu diesel phân tán trong nước từ 18 mg/l đến 50 mg/l, phản ứng quang phân trên hệ TiO2/UV đạt hiệu quả xử lý từ 65% đến 74%. Nồng độ ban đầu có ảnh hưởng tới thời gian phản ứng: đối với nồng độ dầu diesel là 18 mg/l thì thời gian phân hủy là 4 giờ (hiệu quả đạt 65.0%), trong khi nếu nồng độ dầu diesel là 40 mg/l thì phải cần chiếu xạ 8 giờ (hiệu quả đạt 70.2%) và nồng độ là 50 mg/l thì phải cần đến 10 giờ (hiệu quả đạt 74.1%). Như vậy, nếu nồng độ dầu diesel ban đầu càng cao thì thời gian cần thiết để đạt hiệu quả phân hủy tối đa càng tăng.

     4. Kết luận

     Qua nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến khả năng phân hủy dầu diesel phân tán trong nước của chất xúc tác quang nano TiO2 có thể rút ra một số kết luận sau:

     Vật liệu nano TiO2 là một chất xúc tác quang có thể ứng dụng trong việc xử lý nước lẫn nhiễm diesel với hiệu quả phân hủy rõ rệt.

     Độ pH của môi trường có ảnh hưởng nhiều đến khả năng phân hủy dầu diesel phân tán trong nước của chất xúc tác quang nano TiO2, trong đó môi trường kiềm mạnh với độ pH = 9 ÷ 11 mang lại hiệu suất phân hủy cao nhất.

     Nồng độ của chất xúc tác quang nano TiO2 cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả phân hủy dầu diesel. Hiệu quả phân hủy sẽ đạt mức cao nhất khi sử dụng một lượng chất xúc tác thích hợp, vượt quá giá trị này thì chính chất xúc tác sẽ tự ức chế hoạt tính xúc tác quang của nó.

     Với một lượng chất xúc tác và độ pH nhất định, hiệu quả phân hủy dầu diesel của chất xúc tác quang nano TiO2 còn phụ thuộc vào nồng độ ban đầu của dầu diesel phân tán trong nước.

 

Lư Thị Yến

Phạm Thị Huế

1Trường Đại hc Công nghệ  Giao thông Vn ti

Nguyễn Thành Đông

2Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số chuyên đề tiếng việt 1/2017)

 

     Tài liệu tham khảo

- Đinh Thị Ngọ, Nguyễn Khánh Diệu Hồng (2006). Giáo trình Hóa học dầu mỏ và khí. NXB Khoa học và Kỹ thuât.

- Andreozzi et al. (1999). Advanced oxidation processes (AOP) for water purification and recovery. Catalysis Today, 53, 51 - 59.

- Mota A.L.N. et al. (2008). Advanced oxidation processes and their application in the petroleum industry: a review.Brazilian Journal of Petroleum and Gas, 2 (3), 122 - 142.

- Ying-Ya Hsuet et al. (2008). Photocatalytic degradation of spill oils on TiO2 nanotube thin films. Marine Pollution Bulletin, 57, 873 - 876.

- Berry, R.J., Mueller, M.R. (1994). Photocatalytic decomposition of crude-oil slicks using TiO2 on a floating substrate. Microchemical Journal, 50, 28 - 32.

- Roberta L. Ziolli, Wilson F. Jardimb (2001). Photocatalytic decomposition of seawater-soluble crude oil fractions using high surface area colloid nanoparticles of TiO2.Journal of Photochemistry and Photobiology, A: Chemistry,147 (3), 205 - 212.

- Ziolli RL, Jardim WF (2002). Operational problems related to the preparation of the seawater soluble fraction of crude oil. J. Environ.Monit., 4 (1), 138 - 141.

- Al-Khwarizmi (2014). Heterogeneous Photocatalytic Degradation for Treatment of Oil fromWastewater. Engineering Journal, 10 (3), 53 - 61.

- Manoj A. Lazar, et al. (2012). Photocatalytic Water Treatment by Titanium Dioxide: Recent Updates. Catalysts, 2, 572 - 601.

.     - Meng Nan Chong, et al. (2010).Recent developments in photocatalytic water treatment technology: A review. Water research, 44, 2997- 3027.

 

 

Ý kiến của bạn