Banner trang chủ
Thứ Hai, ngày 25/11/2024

Giáo dục môi trường cho sự phát triển bền vững các cộng đồng dân tộc thiểu số ở huyện Simacai, tỉnh Lào Cai

04/05/2020

     Tóm tắt

     Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá các vấn đề môi trường, nhận thức về môi trường và ảnh hưởng của môi trường đến sinh kế của họ ở huyện Simacai, tỉnh Lào Cai. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đã xuất hiện nhiều vấn đề môi trường khá nghiêm trọng và diễn biến phức tạp ở các vùng dân tộc thiểu số như suy thoái rừng, thoái hóa đất và nước. Đặc biệt, những vấn đề cấp bách nổi lên trong những năm gần đây là ô nhiễm môi trường do quản lý chăn nuôi và chất thải sinh hoạt, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp. Nghiên cứu cũng đề cập đến nhận thức và những hành vi môi trường của người Mông và nhu cầu giáo dục môi trường cho cộng đồng dân tộc thiểu số ở Lào Cai nói riêng và vùng núi phía Bắc nói chung. Từ đó, đề xuất khung tiếp cận trong giáo dục môi trường cho phát triển bền vững với nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, kết hợp giữa kiến ​​thức khoa học và kiến thức bản địa phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội (KT-XH) của người dân tộc thiểu số, thúc đẩy trách nhiệm của các tổ chức xã hội và vai trò của người có uy tín trong cộng đồng.

     Từ khóa: Nhận thức về môi trường, cách tiếp cận, giáo dục môi trường, dân tộc thiểu số.

     1. Đặt vấn đề

     Theo truyền thống, người Mông thường sinh sống ở các vùng cao khoảng 800-1.500m so với mực nước biển. Hiện nay người Mông sông rải rác ở các vùng miền núi trên cả nước, tuy nhiên vẫn tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, trong đó Lào Cai là một trong những tỉnh có đông người Mông sinh sống. Simacai được xem là huyện có nhiều người Mông sinh sống của tỉnh Lào Cai. Trong những năm gần đây, khi điều kiện KT-XH có sự phát triển nhanh thì nhiều vấn đề môi trường cũng xuất hiện càng nhiều và ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn và có tác động lớn đến sự phát triển KT-XH và đời sống con người, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của cộng đồng. Do đó, BVMT hiện được coi là một vấn đề quan trọng và được đặt ra như một yêu cầu tất yếu để phát triển bền vững của các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, nhiều chương trình BVMT cho các cộng đồng dân tộc thiểu số thường có hiệu quả thấp chủ yếu là do cách tiếp cận, phương pháp thực hiện hoặc nội dung không phù hợp. Do vậy, nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá các vấn đề môi trường, nhận thức về môi trường và đề xuất cách tiếp cận phù hợp trong giáo dục môi trường để phát triển bền vững cộng đồng các dân tộc Mông nói riêng và các dân tộc miền núi nói chung, lấy ví dụ ở huyện Simacai, tỉnh Lào Cai.

     2. Phương pháp nghiên cứu

     Nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn 2017-2018 tại huyện Simacai, tỉnh Lào Cai. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) trong khảo sát thực địa với các bảng câu hỏi mở kết hợp với phỏng vấn trực tiếp người Mông sống trong khu vực. Sự tham gia của người dân trong suốt quá trình khảo sát, tham gia các lớp tập huấn và thực hiện các mô hình được xây dựng của dự án. Trong đó từ việc xác định các vấn đề môi trường, trao đổi về các nguyên nhân và hệ quả, thực hiện triển khai và quản lý và đánh giá các mô hình. Nhìn chung, bảng câu hỏi bán cấu trúc được chia thành ba nhóm vấn đề chính: Nhóm vấn đề thứ nhất liên quan đến phát triển kinh tế và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nhóm vấn đề thứ hai liên quan đến nhận thức của người dân về môi trường và nhóm vấn đề thứ ba liên quan đến các vấn đề môi trường và công tác giáo dục môi trường. Do sự tương đồng cao về lối sống và thói quen sinh hoạt của người Mông ở Lào Cai, nghiên cứu đã chọn ngẫu nhiên 80 hộ gia đình người Mông thuộc 2 xã Sín Chéng và Thào Chư Phìn, huyện Simacai để phỏng vấn, người được phỏng vấn là người đại diện cho chủ hộ. Dựa trên các kết quả nghiên cứu thực tế để xây dựng cách tiếp cận giáo dục môi trường để phát triển bền vững các dân tộc thiểu số cho cộng đồng dân tộc người Mông ở Si Ma Cai. Cách tiếp cận giáo dục môi trường này đã được áp dụng thử nghiệm tại 2 xã Sín Chéng và Thào Chư Phìn, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai đã cho thấy sự thích hợp và có hiệu quả cao.

     3. Kết quả và thảo luận

     3.1. Một số đặc điểm của dân tộc Mông ở Lào Cai

     Hiện nay, người Mông ở Lào Cai sống tương đối tập trung tại các thôn bản, thường từ vài chục gia đình. Theo truyền thống, người đứng đầu thôn bản có trách nhiệm giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng. Người dân của mỗi thôn bản tự nguyện tuân theo quy tắc được quy định chung, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, bảo vệ rừng, duy trì trật tự xã hội và sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.

     Trong nhiều thế kỷ trước, người Mông ở vùng núi phía Bắc Việt Nam nói chung vẫn sống hòa hợp với thiên nhiên xung quanh với những kinh nghiệm riêng của họ. Dần dần, từ những kinh nghiệm này hình thành các phong tục tập quán, lối sống và luật tục, như các quy ước về bảo vệ rừng, săn bắn, hái lượm, kinh nghiệm trong việc đốt nương làm rãy và kiến tạo ruộng bậc thang; hình thành nền văn hóa và tín ngưỡng, tổ chức và hoạt động của cộng đồng.

     Những kinh nghiệm này dần được đúc kết hình thành các kiến thức bản địa và được truyền lại trong mỗi gia đình và cộng đồng, từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu bằng truyền miệng. Do đó, những kiến thức bản địa cũng có nhiều thay đổi theo thời gian và ở mỗi cộng đồng. Nhìn chung các kiến thức bản địa là những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất quý báu cho người dân tộc sống hài hòa với tự nhiên. Tuy nhiên, các kiến thức bản địa thường bị giới hạn trong phạm vi nhỏ của cộng đồng và chỉ phù hợp với điều kiện tự nhiên, văn hóa và KT-XH của một số địa phương nhất định. Đặc biệt, trong thời kỳ phát triển KT-XH hiện nay, hệ sinh thái tự nhiên đang xuống cấp nghiêm trọng, nhiều kiến ​​thức bản địa không còn phù hợp trong điều kiện mới phát sinh. Do vậy, cần nghiên cứu và lựa chọn những kiến ​​thức phù hợp với điều kiện hiện tại để đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai.

     3.2. Các vấn đề môi trường nông thôn miền núi ở các vùng dân tộc thiểu số ở huyện Simacai

     3.2.1. Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp và sử dụng tài nguyên thiên nhiên

     Là vùng nông thôn miền núi, quản lý môi trường ở các dân tộc thiểu số ở Lào Cai vẫn gặp nhiều khó khăn do kinh tế và cơ sở hạ tầng kém, và nhận thức của người dân còn hạn chế. Trong những năm vừa qua, Lào Cai có tốc độ phát triển kinh tế tăng khá nhanh, với tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn giai đoạn 2011 - 2015 đạt 14,5%/năm và giai đoạn 2016 - 2020 đạt 12,5%/năm. Đây là cơ sở làm cho tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở Lào Cai tuy giảm mạnh, nhưng vẫn còn ở mức khá cao 22% vào năm 2017 và 16% năm 2018. Lào Cai vẫn là một trong những khu vực có tỷ lệ nghèo cao trong cả nước. Số hộ nghèo của Lào Cai tập trung nhiều nhất tại các huyện Bắc Hà, Mường Khương và Si Ma Cai.

     Với dân số ngày càng đông, áp lực đối với tài nguyên thiên nhiên đang gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là tài nguyên rừng và đất, cho sự phát triển KT-XH của con người, ví dụ như như trường hợp ở huyện Si Ma Cai. Si Ma Cai là một trong 3 huyện nghèo nhất của tỉnh Lào Cai, với hơn 6.500 hộ dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông (82,52%). Để phát triển KT-XH, huyện Si Ma Cai tập trung vào khai thác các thế mạnh của địa phương, tận dụng lợi thế đất đai cùng nguồn lao động, tập trung vào hai hình thức phát triển sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi đại gia súc) theo hướng hàng hóa để xóa nghèo nhanh (Bảng 1).

Bảng 1. Tình hình dân số và sản xuất nông nghiệp ở huyện Si Ma Cai

Hạng mục

Đơn vị

2000

2018

2018 so với 2000 (lần)

Diện tích tự nhiên

ha

23.148*

23.357,89**

1,01

Dân số

Người

22.394*

60.396

2,70

Diện tích rừng sản xuất

ha

0

3.564,04

-

Đất sản xuất nông nghiệp

ha

4.881

7.602,44

1,56

Tổng đàn trâu bò

Nghìn con

11.887

21.127

1,78

Tổng đàn lợn

Nghìn con

15.030

20.990

1,40

Tổng đàn gia cầm (gà vịt)

Nghìn con

140.890

185.000

1,31

 

Nguồn: *[1] **[2]

     Kết quả khảo sát ở 80 hộ gia đình cho thấy, trong sinh kế hàng ngày, người dân tộc thiểu số nói chung và người Mông nói riêng coi tài nguyên thiên nhiên là sẵn có nên quá trình khai thác thường không gắn với việc tái tạo và sử dụng chúng một cách không bền vững. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 74% số người được hỏi có tham gia khai thác gỗ trái phép trong rừng, 71% canh nương rẫy theo hình thức chặt đốt và 55% có săn bắt thú rừng (Bảng 2).

Bảng 2. Khai thác tài nguyên và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở huyện Si Ma Cai

Hạng mục

Các hoạt động

Số hộ gia đình (n=80)

Tỷ lệ (%)

Đốt rừng để làm nương rẫy

57

71

Không

23

29

Khai thác gỗ trái phép

Có tham gia

59

74

Không tham gia

21

26

Săn bắt động vật hoang dã

Có tham gia

44

55

Không tham gia

36

45

Sử dụng thuốc BVTV

Có sử dụng

80

100

Không sử dụng

0

0

 

     3.2.2. Quản lý chăn nuôi và chất thải sinh hoạt

     Trong những năm gần đây, điều kiện KT-XH ở Lào Cai đã có sự phát triển đáng kể, đồng thời cũng là lúc chất thải sinh hoạt được tạo ra đáng kể gây ô nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn miền núi, đặc biệt là ở các khu vực xung quanh nơi công cộng như chợ, đường làng, khu vui chơi công cộng… Cách phổ biến nhất để xử lý chất thải sinh hoạt là đốt đơn giản (59%), chôn lấp đơn giản trong vườn nhà (45%) và xả trực tiếp tự do vào môi trường xung quanh (41%), bảng 3. Ngoài ra toàn bộ nước thải sinh hoạt được xả thải trực tiếp vào đất hoặc nguồn nước tự nhiên mà không áp dụng bất kỳ xử lý nào, gây ô nhiễm môi trường.

Bảng 3. Quản lý chất thải chăn nuôi và chất thải sinh hoạt ở vùng dân tộc thiểu số của huyện Si Ma Cai

Hạng

mục

Hình thức

quản lý

Số hộ gia đình (n=80)

Tỷ lệ

(%)

Quản lý chất thải sinh hoạt

Đốt

47

59

Chôn trong vườn

36

45

Vứt tự do ra môi trường

33

41

Quản lý nước thải sinh hoạt

Tự chảy ra vườn

80

100

Tự chảy ra sông, suối

15

19

Nhà vệ sinh

Có nhà vệ sinh một hai ngăn

11

14

Có nhà vệ sinh thô sơ

48

60

Không có nhà vệ sinh

21

26

Xử lý phân gia súc, gia cầm

Nuôi nhốt, có thu dọn phân

34

43

Không thu dọn phân

46

58

Quản lý vật nuôi

Chăn thả tự do

12

15

Nhốt hoặc buộc ở đầu sàn

36

45

Có chuồng nuôi nhốt riêng

32

40

Nguồn nước sinh hoạt

Nước giếng

2

3

Nước giếng đào

8

10

Nước suối tự nhiên

68

85

Nước mưa

4

5

 

     Đối với quản lý chăn nuôi, do truyền thống chăn thả tự do với quy mô nhỏ, người dân đã không chú ý đến việc thu gom chất thải chăn nuôi nên đã trở thành nguồn gây ô nhiễm môi trường rất lớn. Tập quán nhốt vật nuôi dưới sàn nhà vẫn còn khá phổ biến (45%) nên gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Với tổng đàn trâu bò và lợn chăn nuôi ở huyện Si Ma Cai là trên 42 nghìn con, lượng phân thải ra hàng ngày ước tính khoảng 465 tấn/ngày (tương ứng khoảng 169.725 tấn/năm), chưa tính đến lượng phân thải ra của 185 nghìn con gia cầm. Hơn nữa, nhiều hộ gia đình không có nhà vệ sinh hoặc nhà vệ sinh không đáp ứng yêu cầu (86%), đây là nguyên nhân quan trọng của nhiều vấn đề vệ sinh nông thôn và nguồn gốc của mầm bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân.            

     3.2.3. Thiếu nước cho nông nghiệp và sử dụng trong nước

     Thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp và nguồn nước sạch cho sinh hoạt là rất phổ biến ở vùng núi cao ở Lào Cai, đặc biệt là trong mùa khô. Ở các cộng đồng dân tộc thiểu số người Mông hiện nay không có hệ thống cấp nước sạch. Phần lớn người dân sử dụng nước suối tự nhiên làm nguồn nước sinh hoạt hàng ngày (85%). Trước đây, các nguồn suối tự nhiên tương đối sạch có thể đáp ứng các yêu cầu cho mục đích sinh hoạt nhưng trong những năm gần đây, nhiều nguồn nước đã có dấu hiệu ô nhiễm do các chất thải khác nhau, thậm chí cả thuốc bảo vệ thực vật.

     3.2.4. Ô nhiễm môi trường do thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trong nông nghiệp

     Trước đây, sản xuất nông nghiệp của người Mông chủ yếu là canh tác nương rẫy theo phương thức canh tác truyền thống. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nông nghiệp đã phát triển theo hướng thâm canh với cây trồng có giá trị kinh tế cao. Trong canh tác nương rẫy, thay vì phát chặt và đốt để canh tác trước đây, người Mông bây giờ sử dụng thuốc diệt cỏ (còn gọi là thuốc cỏ cháy) trực tiếp để diệt cỏ. Hậu quả của việc lạm dụng thuốc diệt cỏ đã gây ảnh hưởng mạnh đến môi trường, có thể làm chậm sự sinh trưởng và năng suất cây trồng, và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người. Kết quả cho thấy, 100% hộ gia đình được khảo sát đều có sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp. Nhiều trường hợp ngộ độc ở người và động vật và thậm chí tử vong đã được ghi nhận có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng thuốc BVTV trong nông nghiệp hoặc nước bị ô nhiễm thuốc BVTV. Điển hình, như năm 2017 tại huyện Simacai có 16 con trâu bị chết với triệu chứng bụng chướng to, đầy hơi, suy kiệt do ngộ độc thuốc diệt cỏ [3].

     3.3. Nhận thức môi trường cách tiếp cận giáo dục môi trường cho người Mông ở Simacai

     3.3.1. Nhận thức về môi trường của người Mông

     Kết quả khảo sát tại các cộng đồng người Mông cho thấy, hầu hết người dân còn chưa hiểu biết về bản chất của các vấn đề môi trường cũng như công tác BVMT. Họ cũng không nhận thức đầy đủ về tác động giữa khai thác tài nguyên thiên nhiên và BVMT để phát triển cộng đồng bền vững. Có tới 76% người dân không nhận biết được các yếu tố môi trường là gì và chỉ có 24% số người kể tên được một số yếu tố môi trường cơ bản như đất, nước,… sau khi được gợi ý thêm. Tuy nhiên, lại có tới 81% người được hỏi cho rằng môi trường có tác động đến đời sống của họ và 96% cho rằng, cần thiết phải BVMT (Bảng 4).

Bảng 4. Nhận thức và hành vi ứng xử môi trường của người Mông ở huyện Si Ma Cai

Thông số

Mức độ

nhận biết

Số hộ gia đình (n=80)

Tỷ lệ

(%)

Biết được một số yếu tố môi trường

Kể được một số yếu tố môi trường

0

0

Kể được một số yếu tố sau khi có gợi ý

19

24

Không biết

61

76

Tác động của môi trường đến đời sống

65

81

Không

2

3

Không biết

13

16

Sự cần thiết BVMT

77

96

Không

0

0

Không biết

3

4

Thái độ ứng xử môi trường

Cần sự chung tay của toàn dân

80

100

Báo cáo ban quản lý địa phương

15

19

Nhắc nhở, góp ý

67

84

Tham gia vào các lớp tập huấn BVMT

Đã từng tham gia

19

24

Chưa tham gia

61

76

Sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ

0

0

 

             

     3.3.2. Cách tiếp cận giáo dục môi trường cho cộng đồng người Mông

     Ở các cộng đồng người Mông hiện nay, do kinh tế và cơ sở hạ tầng còn hạn chế nên việc BVMT chưa được người dân quan tâm đúng mức. Những vấn đề môi trường mới phát sinh ngày càng nhiều. Một vấn đề cần quan tâm hiện nay là truyền thống bảo vệ thiên nhiên của người Mông thường được dựa vào tín ngưỡng (rừng thiêng, rừng cấm, suối thiêng,…) đã ít còn được coi trọng như trước đây. Các luật tục trong thôn bản không được duy trì (như cúng thần rừng, thần sông, thần suối…), nên lớp người trẻ tuổi cũng ít còn quan tâm đến các rừng thiêng. Do đó, giáo dục môi trường cho người Mông là rất quan trọng để góp phần tăng cường công tác BVMT cho sự phát triển bền vững cộng đồng. Vấn đề khó khăn nhất trong giáo dục và BVMT cho các dân tộc thiểu số là làm thay đổi phong tục tập quán truyền thống không còn phù hợp với điều kiện hiện nay. Với lối sống tương đối khép kín, người Mông thường chỉ tiếp thu kiến ​​thức từ bên ngoài nếu điều đó thực sự mang lại lợi ích cho họ. Nên công tác giáo dục môi trường để phát triển bền vững cần phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng cộng đồng dân tộc và dây được xem là yếu tố quyết định có ý nghĩa dẫn đến làm thay đổi hành vi môi trường của người dân. Vấn đề này cũng được đề cập đến trong nghiên cứu của Chew-Hung Chang & Gillian Kidman (2018) cho rằng, giáo dục môi trường không chỉ quan trọng đối với nghiên cứu về giáo dục bền vững môi trường, mà cần phải đặt trong bối cảnh cụ thể và có thể đáp ứng các yêu cầu về phát triển kinh tế và bền vững của cộng đồng [4].

     Việc xác định mục tiêu cho công tác giáo dục môi trường cần được cụ thể và rõ ràng, không nên đặt ra quá nhiều mục tiêu sẽ làm cho công tác giáo dục môi trường không có hiệu quả cao. Theo Schroter (2010), mục tiêu của giáo dục môi trường là làm cho người dân về nhận thức và sự quan tâm quan tâm đến môi trường và các vấn đề liên quan đến môi trường, có kiến ​​thức, kỹ năng, thái độ, sáng kiến và trách nhiệm đối với giải quyết các vấn đề hiện tại và phòng ngừa những vấn đề môi trường phát sinh mới [5]. Giáo dục môi trường để thúc đẩy sự phát triển bền vững của con người, bền vững xã hội, bền vững kinh tế và bền vững môi trường tự nhiên [6]. Mặt khác, trong công tác giáo dục môi trường cũng cần quan tâm đến các vấn đề về đạo đức môi trường và các khía cạnh về KT-XH [7]. Tuy nhiên trên thực tế, giáo dục môi trường thường không đáp ứng được các yêu cầu do sự thay đổi liên tục của điều kiện KT-XH cũng như các yếu tố môi trường [8].

     Từ kết quả nghiên cứu thực tế cho thấy, công tác giáo dục môi trường để phát triển bền vững các cộng đồng dân tộc thiểu số phải đạt được ba mục tiêu sau: Nâng cao nhận thức về môi trường, xây dựng năng lực BVMT và thay đổi hành vi môi trường của mọi người (Hình 1). Những mục tiêu này có một mối quan hệ hỗ trợ và thúc đẩy.

 

Hình 1. Mục tiêu của giáo dục môi trường cho sự phát triển bền vững

     Về cách tiếp cận giáo dục môi trường cho cộng đồng người Mông cần có sự kế thừa và phát huy những mặt tích cực của kiến thức bản địa về sử dụng tài nguyên thiên nhiên, phát huy truyền thống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, của người dân tộc. Tuy nhiên, cần có sự chọn lọc hợp lý dựa trên cơ sở khoa học cho phù hợp với điều kiện của từng địa phương cụ thể.

     Từ các kết quả nghiên cứu thực tế ở các cộng đồng người Mông ở Si Ma Cai cho thấy, giáo dục môi trường để phát triển bền vững cho cộng đồng dân tộc thiểu số cần dựa trên cách tiếp cận, bao gồm 6 bước chính như trong Hình 2. Các nội dung đặt ra cần được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với đặc điểm của cộng đồng dân cư địa phương. Theo đó, Bước 1: Khảo sát và thu thập các thông tin cần thiết; 2: Phân tích điều kiện tự nhiên, KT-XH và môi trường địa phương; Bước 3: Xác định các nguyên nhân và hệ quả của suy thoái môi trường đối với cộng đồng, các vấn đề ưu tiên cần giải quyết; Bước 4: Thiết kế nội dung và chương trình giáo dục môi trường để phát triển bền vững; Bước 5: Thực hiện công tác giáo dục môi trường; Bước 6: Đánh giá kết quả của chương trình giáo dục môi trường, điều chỉnh nội dung và phương pháp thực hiện để có hiệu quả hơn. Nội dung giáo dục môi trường cần bao gồm 3 hợp phần chính: Công tác giáo dục môi trường nâng cao nhận thức và năng lực BVMT cho người dân theo nhiều cách khác nhau, như: tập huấn, truyền thông bằng hình ảnh, tờ rơi,… Thành lập các nhóm tự quản BVMT để tuyên truyền, tổ chức và duy trì các hoạt động BVMT tại địa phương; Xây dựng mô hình BVMT cụ thể để giải quyết những vấn đề môi trưởng ưu tiên ở địa phương.

 

Hình 2. Khung tiếp cận giáo dục môi trường cho phát triển bền vững cộng đồng dân tộc thiểu số

     4. Kết luận

     Hiện nay, điều kiện và mức sống của người Mông ở Việt Nam nói chung và ở Lào Cai nói riêng đã được cải thiện đáng kể cả. Đồng thời, đây cũng là thời gian xuất hiện nhiều vấn đề môi trường như: suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái tài nguyên đất và nước, sử dụng không hợp lý thuốc bảo vệ thực vật. Các vấn đề vệ sinh môi trường nông thôn như: chất thải chăn nuôi, rác thải và nước thải sinh hoạt,… xuất hiện ngày càng phổ biến nghiêm trọng hơn, đe dọa trực tiếp đến sự phát triển bền vững của cộng đồng. Giáo dục môi trường được coi là nhiệm vụ quan trọng để thay đổi nhận thức, năng lực và hành vi ứng xử môi trường của người dân. Nghiên cứu đã chỉ ra các vấn đề môi trường, các vấn đề về nhận thức môi trường của người Mông ở Lào Cai, cũng như cách tiếp cận tổ chức công tác giáo dục môi trường để phát triển bền vững các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dựa trên các điều kiện của người Mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai; nghiên cứu đã xác định các ưu tiên và đề xuất khung tiếp cận giáo dục môi trường cần có sự kết hợp kiến ​​thức khoa học với kiến ​​thức bản địa, phát huy trách nhiệm cộng đồng và vai trò gương mẫu của uy tín của già làng, trưởng bản và những người có trách nhiệm trong thôn bản. Phương pháp tiếp cận giáo dục môi trường cho phát triển bền vững cần được dựa trên điều kiện cụ thể của từng cộng đồng dân tộc và từng địa phương. Cần xác định ró các vấn đề môi trường cụ thể, các nguyên nhân và hệ quả của suy thoái môi trường đối với cộng đồng. Chương trình giáo dục môi trường để phát triển bền vững phải thiết thực và gắn liền với những lợi ích cụ thể đem lại cho người dân và cộng đồng nói chung.

Nguyễn Xuân Cự1, Nguyễn Thu Trang2

1Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội

2Học viện Dân tộc

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng việt 1/2020)

 

Lời cảm ơn: Nghiên cứu này là một phần kết quả của Dự án "Nâng cao nhận thức và năng lực BVMT cho cộng đồng vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020" do Ủy ban Dân tộc quản lý.

Tài liệu tham khảo

[1] Nghị định số 36/2000/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 18 tháng 8 năm 2000 về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Bắc Hà để tái lập huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai.

[2] UBND tỉnh Lào Cai, Quyết định số 1017/QĐ-UB ngày 6/4/2018 của UBND tỉnh Lào Cai về phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2018 của huyện Simacai.

[3] Thúy Phượng, Siết chặt việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, Báo Lào Cai ngày 14/07/2017, http://www.baolaocai.vn/xa-hoi/siet-chat-viec-su-dung-thuoc-bao-ve-thuc-vat-z5n2017071409224358.htm

 [4] Chew-Hung Chang & Gillian Kidman (2018), The future of education for sustainable development - where next after a decade of discourse? International Research in Geographical and Environmental Education, 27:4, 281-282, DOI: 10,1080/10382046,2018,1511040 To link to this article:  https://doi,org/10,1080/10382046,2018,1511040

 [5] Schroter, D, (2010), Sustainability Evaluation Checklist, Western Michigan University, Kalamazoo, MI, available at: www,wmich,edu/evalctr/wp-content/uploads/2010/06/ 

[6] UNEP and UNESCO (1976), The Belgrade Charter A Global Framework for Environmental Education; available at: www,medies,net/_uploaded_ files/Vietnam Central Steering Committee for Population and Housing Census (2010), Vietnam Population and Housing Census 2009: Overall results, Hanoi, 6-2010, p,134-225

[7] Helen Kopnina and Frans Meijers (2014), Education for sustainable development (ESD): exploring theoretical and practical challenges, International Journal of Sustainability in Higher Education Vol, 15 No, 2, pp, 188-207, @Emerald Group Publishing Limited1467-6370DOI 10,1108/IJSHE-07-2012-0059

 [8] Angeles Ull, M,, Pilar Martinez-Agut, M,, Pinero, A,, & Aznar-Minguet, P, (2014), Perceptions and attitudes of students of teacher-training towards environment and sustainability, Procedia – Social and Behaviour Sciences, 131, 453–457, Doi:10,1016/j,sbspro, 2014,04,147

Environmental Education for Sustainable Development

of Ethnic Communities in Simacai district, Lao Cai Province

1Nguyen Xuan Cu, 2Nguyen Thu Trang

1Faculty of Environment Sciences, VNU University of Science,

Vietnam National University, Hanoi

2Vietnam Academy for Ethnic Minorities

     This study focuses on the assessment of environmental problems, environmental awareness and environmental impacts on their livelihoods of the Hmong ethnic communities in Simacai district, Lao Cai province. The research results show that there have been quite a number of serious and complicated environmental problems in ethnic minority areas such as deforestation, land and water degradation. In particular, pressing issues that have emerged in recent years are environmental pollution due to livestock raising, domestic waste and the use of pesticides in agriculture. The study also addresses the awareness and environmental behaviors of the Hmong people and the need for environmental education for ethnic minorities in Lao Cai in particular and the northern mountainous areas in general. The study proposes an approach framework in environmental education for sustainable development with a people-centered principle, combining scientific and indigenous knowledge in the socio-economic context of Hmong ethnic minorities, promoting the responsibility of social organizations and the role of prestigious people in the community.

Key words: Environmental awareness, Environmental education, Approach framework, Ethnic minorities.

 

Ý kiến của bạn