Banner trang chủ

Quản trị môi trường trong giai đoạn phát triển mới

20/07/2016

   Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế nhưng vẫn chưa thật sự bền vững, chất lượng tăng trưởng còn thấp, tài nguyên thiên nhiên chưa được coi là nguồn lực đặc biệt quan trọng cần khai thác hợp lý và hiệu quả để đảm bảo duy trì giá trị sử dụng cho thế hệ tương lai.

Khai thác hợp lý và hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo giá trị sử dụng cho thế hệ tương lai

   Theo báo cáo Phát triển Việt Nam 2010 về Quản lý tài nguyên thiên nhiên của Nhóm các Đối tác phát triển cho Việt Nam, phần lớn tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay dựa trên khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất gia tăng không kiểm soát; tài nguyên nước ngày càng bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng; rừng tự nhiên bị tàn phá để lấy gỗ; trữ lượng cá bị đánh bắt cạn kiệt; tài nguyên khoáng sản ngày càng bị khai thác nhiều hơn. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng chung của nền kinh tế, tăng trưởng dân số, đô thị hóa và công nghiệp hóa dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm nước, không khí và suy thoái tài nguyên thiên nhiên. Nếu tình trạng này không thể cân bằng thông qua tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên và áp dụng các tiến bộ công nghệ thì kết quả cuối cùng sẽ là sự gia tăng áp lực đối với phát triển của toàn xã hội, khi các lợi ích tăng trưởng kinh tế không đủ bù đắp tổn thất về sức khỏe con người, suy thoái chất lượng môi trường và suy giảm khả năng sản xuất của hệ sinh thái trong dài hạn.

   Mặt khác, cùng với những tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) như nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng, xâm nhập mặn, sự thay đổi lượng mưa làm cho hạn hán và lũ lụt trở nên trầm trọng hơn, hay các sự kiện khí hậu cực đoan có thể xảy ra thường xuyên và khắc nghiệt hơn… Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc đã và đang tác động tiêu cực đến nền kinh tế, đòi hỏi phải có những giải pháp khả thi, tìm kiếm những công cụ mới, chuyển đổi mô hình tăng trưởng để có thể biến những thách thức thành cơ hội phát triển bền vững.

   Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế chủ đạo của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Thế giới ngày nay đang sống trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. 5 năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO; tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như TPP với phạm vi rộng hơn, bao gồm cả các thể chế, pháp lý trong các lĩnh vực môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… do đó sẽ hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước.

   Tự do hóa thương mại đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường sẽ góp phần hỗ trợ Việt Nam với chi phí thấp để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và ứng phó với BĐKH, đồng thời gia tăng các cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Tuy nhiên Việt Nam cũng sẽ đối diện với nguy cơ bị cạnh tranh khốc liệt ngay tại thị trường nội địa, có thể kèm theo nguy cơ gia tăng nguồn tiềm tàng trực tiếp gây thảm họa môi trường...

   Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy các chính sách thương mại, TN&MT có vai trò hỗ trợ lẫn nhau, nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và góp phần giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và BVMT. Do đó, một quốc gia để đạt được mục tiêu trở thành một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, bền vững, cần khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trong xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại, các nước đang phát triển rất quan tâm tới việc loại bỏ khả năng tiếp cận thị trường của các sản phẩm nhập khẩu không tuân thủ các quy trình sản xuất, các sản phẩm không phù hợp với yêu cầu BVMT.

   Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khai thác sử dụng tài nguyên và BVMT phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa. Tham gia hội nhập, chính sách và pháp luật và khai thác, sử dụng tài nguyên và BVMT của Việt Nam sẽ chịu tác động và ảnh hưởng của pháp luật các nước thành viên khác. Những ràng buộc đó góp phần định hướng cho chính sách điều tiết của Việt Nam ngày càng hài hòa với các quy tắc và tiêu chuẩn được thừa nhận rộng rãi ở các nước khác.

   Trong bối cảnh đất nước ngày càng gia nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu, rõ ràng là Việt Nam cần có một chiến lược quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và hợp lý để đảm bảo nguồn lực phát triển lâu dài.

   Chính sách pháp luật về TN&MT cần có những quy định cụ thể đối với các hoạt động kinh tế trong nước nhằm định hướng và thúc đẩy sử dụng tối ưu và bảo vệ nguồn tài nguyên và hỗ trợ hàng hóa trong nước xâm nhập được những thị trường khó tính, vượt qua được các rào cản về môi trường của các quốc gia; đồng thời ngăn cản được những hàng hóa không thân thiện với môi trường xâm nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Cơ chế pháp lý phải thay đổi và điều chỉnh sao cho phù hợp và hài hòa với yêu cầu của các hiệp định môi trường đa phương của các khối kinh tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. Bên cạnh đó, cần nỗ lực nghiên cứu kinh nghiệm của các nhà xuất khẩu để tìm hiểu về các rào cản thương mại nảy sinh từ các tiêu chuẩn môi trường của nước ngoài. Việt Nam cần áp dụng triệt để nguyên tắc phát triển bền vững thể hiện ở đường lối và chính sách, pháp luật nói chung và về khai thác sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, BVMT nói riêng.

   Việt Nam đã ban hành các văn bản luật và quy định liên quan đến khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên điều quan trọng là cần có các quy định về mối liên kết của các cấp từ quốc gia đến địa phương, đặc biệt là vai trò của cộng đồng nông thôn nơi sinh kế phụ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự và cộng đồng trong công tác BVMT cần phải được tăng cường thông qua minh bạch hóa quá trình xây dựng và ban hành chính sách. Cộng đồng sẽ có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn cạnh tranh thương mại không lành mạnh, thúc đẩy sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường.

   Sản xuất và tiêu thụ không bền vững là nguyên nhân chính làm gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên và BĐKH. Việc thay đổi mẫu hình sản xuất và tiêu dùng là một hành động đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền vững và là xu hướng tất yếu của tương lai. Chính sách, pháp luật cũng cần định hướng và giáo dục người tiêu dùng Việt Nam quan tâm hơn tới vấn đề khai thác, sử dụng tài nguyên BVMT, chuyển dần sang lựa chọn và tiêu thụ những sản phẩm thân thiện với môi trường và tạo điều kiện cho đất nước đi theo con đường phát triển bền vững. Đồng thời, thông qua việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ trên cả hai phương diện là chất lượng hàng hóa và hình ảnh của công tác BVMT có liên quan đến hoạt động sản xuất, cơ chế chính sách “Xanh hóa sản xuất” sẽ góp phần thúc đẩy hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam xâm nhập vào các thị trường nước ngoài, đặc biệt là những thị trường khó tính, nhạy cảm về vấn đề môi trường.

   Sau 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới sự phát triển vì con người. Những yếu tố đó được thực hiện trong môi trường chính trị ổn định, là cơ hội cho triển khai thực hiện “Tăng trưởng xanh”, trụ cột hướng tới phát triển bền vững.

   Nếu biết phát huy lợi thế nguồn vốn tự nhiên, khắc phục được những tồn tại hạn chế của các nước trên thế giới đã gặp phải, Việt Nam không chỉ đạt mục tiêu phát triển bền vững mà còn có thể rút ngắn khoảng cách phát triển, tạo ra thế ổn định về mặt chính trị, góp phần xóa đói giảm nghèo, vừa đạt được hiệu quả kinh tế cao vừa đạt được sự bền vững môi trường cũng như sự công bằng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.

TS. Lê Hoàng Lan

Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam

Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 6/2016

Ý kiến của bạn