Banner trang chủ

Ðảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam - Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

01/06/2017

   Hiện nay, bảo đảm an ninh môi trường (ANMT) đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức ANMT không chỉ đe dọa an ninh con người, kinh tế, lương thực… mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia (ANQG) và sự tồn vong của nhân loại. Hiện nay, vấn đề ANMT được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đã thống nhất, ANQG và ANMT có mối quan hệ chặt chẽ, bởi vì về thực chất, ANMT là thành tố thuộc an ninh phi truyền thống (ANPTT), một bộ phận cấu thành ANQG. Vì vậy, đảm bảo ANMT là một phần quan trọng nhằm đảm bảo ANQG trong thời đại mới.

   ANMT nhìn từ góc độ ANQG

   Tại Việt Nam, Luật ANQG năm 2004 đã xác định, ANQG là sự ổn định, PTBV của chế độ XHCN và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nội dung cơ bản của ANQG là bảo vệ lợi ích quốc gia và loại bỏ các mối đe dọa tới lợi ích đó. Trong bối cảnh hiện nay, do mặt trái của sự phát triển cùng với xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, vấn đề ANQG không chỉ giới hạn trong việc ngăn chặn, ứng phó với các nguy cơ chiến tranh, mà còn bao hàm nhiều vấn đề ANPTT như biến đổi khí hậu (BĐKH), ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt nguồn nước, khủng bố, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia… Các thách thức ANPTT có thể làm cho một quốc gia, thể chế xã hội sụp đổ mà không cần hoạt động quân sự.

   Một trong những vấn đề ANPTT nổi cộm hiện nay và được nhiều học giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu là vấn đề ANMT. Năm 1972, vấn đề ANMT lần đầu tiên được đưa vào Chương trình Nghị sự quốc tế tại Hội nghị Liên hợp quốc (LHQ) về môi trường và con người ở Stốckhôm (Thụy Điển). Đại hội đồng LHQ lần đầu tiên đã đề cập tới khái niệm ANMT vào năm 1987 trong một văn bản chính thức: “Quản lý nguồn tài nguyên không hợp lý, lãng phí đều uy hiếp đối với an ninh. Sự biến đổi tiêu cực của môi trường đang uy hiếp đối với sự phát triển… trở thành nguyên nhân của các căng thẳng và tiêu cực xã hội, ảnh hưởng đến nhân loại như đói nghèo, mù chữ, dịch bệnh…”.

   Ngày 26/4/1986, vụ tai nạn tại Nhà máy điện nguyên tử Chernobyl đã gây thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới và sau đó, Tổng thống Gorbachew đã đề nghị đưa an toàn sinh thái lên ưu tiên hàng đầu ở Liên Xô trước đây. Điều này đã giúp củng cố lòng tin của quốc tế vào khái niệm ANMT. Ngay khi mới đắc cử vào năm 1993, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố, ANMT là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của ANQG. Theo đó, Chính phủ Mỹ đã đưa vấn đề ANMT vào trong Báo cáo Chiến lược ANQG năm 1994. Năm 1996, các nước châu Âu (EU) cũng chính thức đặt vấn đề môi trường trở thành một lĩnh vực thuộc phạm vi ANQG. Đến nay, các nước Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh, Canađa, EU và nhiều nước khác đã ban hành Chiến lược ANMT.

   Theo Hội đồng Bảo an LHQ (năm 1992), ANMT là sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường (ÔNMT) và những hiểm hoạ có thể gây suy yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột và chiến tranh. Dự án Thiên niên kỷ của Hội đồng châu Mỹ thuộc LHQ xác định, ANMT là việc đảm bảo an toàn trước các mối nguy hiểm môi trường sinh ra do sự yếu kém trong quản lý hoặc thiết kế. Mặc dù còn nhiều vấn đề phải tranh cãi, nhưng hiện nay, các học giả đã thừa nhận, các yếu tố môi trường đóng vai trò trực tiếp và gián tiếp trong tranh chấp chính trị, xung đột bạo lực, đồng thời, thống nhất ANQG và ANMT có tính chất hữu cơ, quan hệ chặt chẽ với nhau.

   Hiện thế giới đang phải đối mặt với các vấn đề ANMT chủ yếu: Tác động của BĐKH toàn cầu, trong đó nhấn mạnh tới hiệu ứng nhà kính gây ấm lên toàn cầu; khan hiếm nguồn nước và sự hủy hoại các nguồn tài nguyên biển; sự phá hủy tầng ô zôn; hiện tượng sa mạc hóa; hệ thực vật rừng bị phá hoại; đa dạng sinh học (ĐDSH) suy giảm và vấn đề mưa axít. Cùng xu thế đó, Việt Nam đang đứng trước nhiều mối đe dọa về ANMT cấp bách cần phải giải quyết, bao gồm: BĐKH; an ninh nguồn nước (ANNN), ANMT biển bị đe dọa; ô nhiễm tại các khu vực trọng điểm và xuyên biên giới; suy giảm tài nguyên rừng và ĐDSH...

   Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước đã khẳng định, BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại, là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đặc biệt, vấn đề BVMT, ứng phó với BĐKH là một nội dung quan trọng được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, trong đó nhấn mạnh, tăng cường công tác quản lý tài nguyên, BVMT, chủ động ứng phó với BĐKH phục vụ phát triển bền vững (PTBV) theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn và yêu cầu phải “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống”. Bên cạnh đó, khái niệm ANMT đã được đưa vào Luật BVMT năm 2014, theo đó, ANMT là việc bảo đảm không có tác động lớn của môi trường đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia. Như vậy, có thể thấy, vấn đề ANMT đã được thế giới, cũng như Việt Nam quan tâm và bước đầu thể chế hóa trong các chính sách, pháp luật.

   Thực trạng ANMT hiện nay ở Việt Nam

   Tác động của BĐKH

   Có thể thấy, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của ANMT hiện nay là BĐKH. Theo đánh giá của các tổ chức thế giới, Việt Nam là một trong những quốc gia phải chịu nhiều ảnh hưởng của BĐKH, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng khốc liệt. Theo Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2016, Việt Nam là quốc gia xếp thứ 7 về rủi ro khí hậu dài hạn trên thế giới. Số liệu của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và BĐKH (IMHEN) và Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP) cũng cho thấy, trong hơn 30 năm qua, bình quân mỗi năm, thiên tai đã làm chết và mất tích khoảng 500 người, bị thương hàng nghìn người, nền kinh tế thiệt hại bình quân lên tới 1,5 % GDP hàng năm. Bình quân mỗi năm, Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp bởi 6 - 7 cơn bão.

BĐKH là một trong những mối đe dọa về ANMT mà Việt Nam đang phải đối mặt

   Kịch bản BĐKH năm 2016 cho thấy, mực nước biển dâng (NBD) trung bình cả nước giai đoạn 1993 - 2014 là 3,34 mm/năm, trong đó ở khu vực ven biển Nam Trung bộ tăng mạnh nhất với tốc độ tăng trên 5,6 mm/năm. Theo kịch bản trung bình, đến năm 2050 mực NBD là 22 cm; năm 2100 là 53 cm. Mực NBD làm mất đất canh tác, tác động trực tiếp tới an ninh lương thực, kinh tế, nguồn nước, gia tăng tình trạng đói nghèo, mất việc làm và di cư. Như vậy, BĐKH đã, đang và sẽ dẫn tới tình trạng mất chỗ ở và di cư vĩnh viễn, hoặc tạm thời ở một số khu vực bị ảnh hưởng nặng nề.

   An ninh nguồn nước

   Theo thống kê, tổng diện tích các lưu vực sông trên cả nước lên đến trên 1.167.000 km2, trong đó có 72% phần lưu vực nằm ngoài diện tích lãnh thổ. Tổng lượng nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 830 - 840 tỷ m3, phần lớn nguồn nước phụ thuộc vào nước ngoài là thách thức lớn nhất đối với ANNN ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. ANNN phụ thuộc lớn vào khai thác và sử dụng để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trên các lưu vực. Mặc dù có nhiều cơ chế hợp tác song phương, đa phương về PTBV nguồn nước, nhưng thực tế vẫn đang đặt ra nhiều sức ép cho Việt Nam.

   Ở lưu vực sông Mê Công, các đập thủy điện xây dựng ở Trung Quốc, Lào, Campuchia sẽ là mối đe dọa làm giảm sút nguồn nước, cá, phù sa, hệ sinh thái... đối với Việt Nam. Mặt khác, mực nước sông Mê Công ngày càng thấp là nguyên nhân chính gây ra tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, nguồn nước sông Hồng từ biên giới Trung Quốc đổ về hạ lưu ngày càng bị ô nhiễm, nhưng các biện pháp xử lý môi trường xuyên biên giới vẫn còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngày càng gay gắt, chủ yếu tập trung vào xung đột trong quản lý nước thải giữa các ngành, thượng lưu và hạ lưu.

   ANMT biển

   Việt Nam có lợi thế về biển, tuy nhiên, nước ta cũng phải đối mặt với các vấn đề về ANMT và chủ quyền lãnh thổ. Hội thảo về ANMT trên biển Đông diễn ra tại Mỹ vào tháng 6/2016 cũng đề cập tới các giải pháp nhằm gìn giữ môi trường và nguồn tài nguyên tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Theo các tài liệu, 80% các rạn san hô ở biển Đông bị suy giảm, dẫn đến suy giảm nguồn cá. Thời gian gần đây, việc Trung Quốc tiến hành hàng loạt các hoạt động tôn tạo, xây dựng trái phép các bãi đá nhân tạo với quy mô lớn tại biển Đông cũng là nguyên nhân dẫn tới những tác động tiêu cực về môi trường tại vùng biển này.

   Hiện nay, 70% - 80% lượng rác thải trên biển có nguồn gốc từ các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, khu dân cư xả nước thải, chất thải rắn không qua xử lý ra các con sông ở vùng đồng bằng ven biển, hoặc xả thẳng ra biển. Bên cạnh đó, năng lực ứng phó với rủi ro ÔNMT biển còn nhiều hạn chế. Trong tháng 4/2016, tại ven biển 4 tỉnh miền Trung xảy ra sự cố môi trường biển nghiêm trọng, làm hải sản chết bất thường, gây thiệt hại lớn về kinh tế - xã hội, môi trường biển; ảnh hưởng đến đời sống người dân, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Từ đó cho thấy, một số địa phương đã chú trọng phát triển kinh tế, thu hút đầu tư mà chưa quan tâm đúng mức tới BVMT. Đây là một bài học lớn và đắt giá cho Việt Nam, cần phải bảo đảm hài hòa lợi ích giữa phát triển kinh tế và BVMT.

   ÔNMT ở một số khu vực trọng điểm

   Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2015, tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt ở khu vực nội đô đạt khoảng 84% - 85%; khu vực nông thôn khoảng 40%; vùng sâu, vùng xa chỉ đạt khoảng 10%. Tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh trên toàn quốc hiện nay khoảng 800.000 tấn/năm. Tuy nhiên, mới chỉ thu gom, xử lý được 40% lượng chất thải nguy hại phát sinh trong sản xuất công nghiệp và 80% trong y tế, dẫn tới nguy cơ gây ÔNMT nếu không được xử lý triệt để.

   Cùng với đó, nạn cháy rừng, chặt phá rừng bừa bãi kéo dài, sự phát triển ồ ạt của các khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, cùng với các chính sách ưu tiên thu hút đầu tư, thiếu chú trọng tới môi trường ở một số địa phương đang đe dọa tới ANMT và sức khỏe cộng đồng. Cả nước hiện có hơn 300 khu công nghiệp, hàng trăm cụm công nghiệp, tuy nhiên, có đến 70% khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn; hơn 90% cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không xử lý nước thải; hơn 4.000 cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng; khoảng 55 - 70% số doanh nghiệp không chấp hành quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc cam kết BVMT; 98% doanh nghiệp có hành vi vi phạm về xả nước thải không đạt chuẩn ra môi trường; 100% doanh nghiệp thải khí không có thiết bị xử lý chất độc hại.

   Ô nhiễm xuyên biên giới

   Thời gian qua, một số nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc được xây dựng gần Việt Nam là vấn đề đáng lo ngại. Đây thực sự là thách thức ô nhiễm xuyên biên giới đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa tới ANMT, ANQG. Nước ta cũng đang phải đối diện với nguy cơ trở thành “bãi rác công nghiệp của thế giới”. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2011, phát hiện 17 vụ với khối lượng chất thải nguy hại thu giữ là 573 tấn, năm 2012, có 30 vụ với khối lượng thu giữ 3.868 tấn.

   Nghiên cứu của IMHEN tại 9 tỉnh ở miền Bắc cho thấy, môi trường không khí đang chịu ảnh hưởng của các nguồn ô nhiễm xuyên biên giới từ vùng phía Đông và Đông Nam Trung Quốc, đặc biệt là vào các tháng mùa đông. Do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, không khí từ Trung Quốc (có thể tới 55% đối với SO2, 48% đối với NO2 và 30% đối với CO) nên gây ra hiện tượng lắng đọng mưa axit, làm độ pH của hồ, ao giảm đi nhanh chóng, các sinh vật trong hồ, ao suy yếu hoặc chết hoàn toàn.

   Suy giảm tài nguyên rừng và ĐDSH

   Cũng theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2015, điều đáng lo ngại là chất lượng rừng tự nhiên tiếp tục giảm. Tuy độ che phủ rừng có xu hướng tăng, nhưng chủ yếu là rừng trồng với mức ĐDSH thấp. Tính riêng năm 2014, tổng diện tích rừng bị cháy là 3.157 ha, tăng 157,2% so với năm trước. Trong 22 năm qua (1990 - 2012), tỷ lệ mất rừng ngập mặn gấp 1,7 lần giai đoạn 47 năm trước (1943 - 1990). Theo thống kê, tính đến năm 2012, 56% tổng diện tích rừng ngập mặn trên toàn quốc là rừng mới trồng, thuần loại, chất lượng rừng kém cả về kích cỡ, chiều cao và đa dạng thành phần loài.

   Suy giảm ĐDSH, sự du nhập của các sinh vật ngoại lai xâm hại và sinh vật biến đổi gen xâm lấn ngày càng tăng. Trên thực tế, nước ta có nhiều loài (mai dương, ốc bươu vàng, rùa tai đỏ, bọ cánh cứng hại dừa, virus gây bệnh heo tai xanh...) có nguồn gốc từ nước ngoài, phá hoại cây trồng, vật nuôi, gây mất cân bằng sinh thái, hủy hoại môi sinh và ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Nhiều loài động, thực vật hoang dã ở Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng, diện tích rừng nguyên sinh còn thấp và khó có khả năng phục hồi, một số loài sinh vật biển suy giảm nghiêm trọng... Theo Sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), nếu như năm 1996 mới chỉ có 25 loài động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp thì đến năm 2014, con số này đã lên tới 188.

   Vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản

   Thực trạng khai thác tài nguyên khoáng sản của Việt Nam cho thấy đang tồn tại nhiều bất cập. Một số khoáng sản có trữ lượng lớn, phân bố liên tục đã bị chia nhỏ để khai thác. Đặc biệt, nạn khai thác không phép, tự do, nhất là đối với vàng, đá quý, chì, kẽm, đồng, than, cát... chưa được kiểm soát hiệu quả, tác động nghiêm trọng đến môi trường, tài nguyên và an ninh xã hội. Vấn nạn “cát tặc” trên các con sông diễn ra rất phức tạp, gây sụt lún đất hai bên bờ sông, ÔNMT và xảy ra nhiều xung đột nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để.

Tham gia trồng rừng ngập mặn nhằm chắn sóng gió, bảo vệ làng mạc giúp cho người dân ven biển có sinh kế bền vững

   Một số giải pháp nhằm đảm bảo ANMT ở Việt Nam

   Thứ nhất, xây dựng Bộ Tiêu chí và xác định Bộ Chỉ số ANMT phù hợp với điều kiện của Việt Nam, nhằm phục vụ công tác quản lý và hoạch định chính sách. Công cụ này giúp cung cấp thông tin cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách đánh giá, kiểm soát mức độ ANMT, từ đó đưa ra các chính sách, giải pháp ngăn chặn, ứng phó kịp thời nhằm đảm bảo ANMT.

   Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, giải pháp, cơ chế ngăn ngừa, ứng phó, đảm bảo ANMT. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm quản lý ANMT hiệu quả, góp phần quan trọng trong quá trình PTBV. Trước hết, cần loại bỏ những quy định không phù hợp, chưa đầy đủ hoặc gây cản trở hoạt động của cơ quan BVMT. Mặt khác, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề ANMT và các công cụ đánh giá, kiểm soát mức độ ANMT, đề xuất xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp, có tính khả thi cao, nhằm đảm bảo ANMT, PTBV. Sớm nghiên cứu và xây dựng dự án Luật BĐKH. Trước mắt, nghiên cứu lồng ghép các tiêu chí về môi trường và BĐKH trong dự án Luật Quy hoạch đang được Quốc hội và Chính phủ xem xét.

   Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài như nguồn vốn, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm quản lý... ANMT là vấn đề toàn cầu, chính vì vậy, đòi hỏi sự hợp tác, hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức trên thế giới để ứng phó với các thách thức mang tính toàn cầu.

   Thứ tư, chú trọng nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, xử lý ÔNMT, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó với BĐKH. Đồng thời, nghiên cứu phát triển các loại năng lượng sạch như điện hạt nhân, năng lượng gió, năng lượng mặt trời… đảm bảo an ninh năng lượng, giảm áp lực năng lượng thủy điện.

   Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BVMT, trong đó có vấn đề ANMT. Tăng cường áp dụng các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin và thực thi hiệu quả các chính sách, pháp luật về BVMT.

   Thứ sáu, giải quyết một cách hài hòa, đồng bộ mối liên hệ giữa phát triển kinh tế, BVMT và các vấn đề xã hội. Thay đổi tư duy phát triển và kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm, xả thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý.

   Thứ bảy, tăng cường công tác quản lý về bảo tồn ĐDSH, bảo vệ và phát triển rừng; nghiêm cấm, kiểm soát chặt chẽ các sinh vật ngoại lai xâm hại; kiểm soát chặt chẽ việc quy hoạch, cấp phép trong hoạt động khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, tăng cường năng lực, bộ máy của các cơ quan dự báo khí tượng, đồng thời, lồng ghép BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình của Trung ương cũng như địa phương.

TS. Tạ Đình Thi

Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ TN&MT

ThS. Phan Thị Kim Oanh

Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT

ThS. Tạ Văn Trung

Tổng cục Môi trường

ThS. Bùi Đức Hiếu

Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ TN&MT

Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 5/2017

Ý kiến của bạn