Banner trang chủ
Thứ Ba, ngày 26/11/2024

Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường tại Ninh Bình

14/10/2013

Ninh Bình đang ở giai đoạn đầu của quá trình đầu tư phát triển, là tỉnh có ưu thế về sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, gạch tuynel, khai thác khoáng sản. Nhiều công trình đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hạ tầng cơ sở và thu hút các dự án đầu tư vào sản xuất. Đây là cơ sở quan trọng tạo đà tăng trưởng kinh tế, nâng cao điều kiện vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực về kinh tế - xã hội thì vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang xuất hiện làm ảnh hưởng không tốt đến đời sống cộng đồng.

 

Hệ thống xử lý nước thải của Nhà máy Đạm Ninh Bình. Ảnh: Đức Lam

                                                Hệ thống xử lý nước thải của Nhà máy Đạm Ninh Bình

          

  Thực trạng môi trường của Ninh Bình

            Trong những năm qua, công tác BVMT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhận thức về BVMT trong nhân dân từng bước được nâng lên; các tổ chức, cá nhân đã tích cực, chủ động phòng, chống khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, do đó mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường từng bước được hạn chế. Tuy nhiên, công tác BVMT còn một số tồn tại, cụ thể như công tác quản lý, kiểm soát ô nhiễm và BVMT ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; kinh phí đầu tư còn hạn chế, hiệu quả sử dụng chưa cao; việc xử lý rác thải chủ yếu bằng biện pháp thủ công dẫn đến nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.

            Môi trường không khí tại các khu vực đô thị những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là hiện tượng ô nhiễm khói bụi trầm trọng do nung đốt vôi thủ công trong khu dân cư nội thành TP. Ninh Bình đã được xóa bỏ hoàn toàn. Tuy vậy, vẫn còn một số khu vực và điểm nút giao thông bị ô nhiễm bởi hàm lượng bụi như: khu vực ngã ba cảng Ninh Phúc; ngã ba Vũng Trắm; ngã ba Chợ Chiều; cảng than và bãi thải xỉ than tại TP. Ninh Bình... Đối với khu vực nông thôn, nhìn chung môi trường không khí chưa bị ô nhiễm, tuy nhiên ở một số trục lộ giao thông, khu vực gần các khu công nghiệp, các điểm khai thác vật liệu xây dựng có dấu hiệu bị ô nhiễm như khu công nghiệp Gián Khẩu, khu công nghiệp Khánh Phú, khu vực làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân, khu vực các nhà máy xi măng và vùng nguyên liệu.

            Ninh Bình là tỉnh có tài nguyên nước tương đối dồi dào. Toàn tỉnh có 811,2 km chiều dài sông suối và 2.367,5 km kênh mương. Chất lượng nước các sông chính trên địa bàn tỉnh chưa bị ô nhiễm, cơ bản đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và các mục đích khác. Tuy nhiên, chất lượng nước đang có chiều hướng suy giảm, một số khu vực đã bị ô nhiễm như sông Vân đoạn chảy qua TP. Ninh Bình, các hồ ao, kênh mương gần, giáp khu dân cư, khu làng nghề... Thành phần gây ô nhiễm nước chủ yếu là các chất bẩn hữu cơ, ở một số nơi, tại một số nước thời điểm nước bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp như khu công nghiệp Khánh Phú.

            Chất lượng môi trường đất trên địa bàn tỉnh nhìn chung chưa bị ô nhiễm. Tuy nhiên do việc quản lý rác và nước thải chưa tốt, lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật còn phổ biến trong sản xuất nông nghiệp đã tác động xấu đến môi trường đất nhất là tại các khu vực làng nghề, khu cụm công nghiệp, các điểm tập kết rác thải.

Một số giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT

            Từ thực tế của địa phương, Ninh Bình đã đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới:

            Tăng cường quản lý nhà nước về BVMT: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của người dân về BVMT, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về BVMT; Rà soát, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về BVMT, đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện thực tiễn của tỉnh; Xây dựng mô hình tổ chức của cơ quan quản lý, BVMT từ cấp tỉnh đến cấp huyện phù hợp với tình hình thực tế; Xác định rõ trách nhiệm và phân công, phân cấp hợp lý nhiệm vụ BVMT giữa các ngành, các cấp và phát triển các cơ chế giải quyết vấn đề môi trường liên ngành, liên vùng; Nâng cao năng lực, tính chủ động trong công tác tham mưu, quản lý nhà nước về BVMT; Đảm bảo các điều kiện cho các đơn vị quản lý nhà nước về BVMT thực hiện nhiệm vụ; chú trọng đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ trong ngành, nhất là cán bộ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm Luật BVMT được thực hiện nghiêm túc; Làm tốt công tác xây dựng, quản lý quy hoạch gắn với BVMT; Chú trọng xây dựng năng lực ứng phó sự cố môi trường; Thực hiện nghiêm túc báo cáo đánh giá tác động môi trường, bản cam kết BVMT theo đúng quy định của Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 14/4/20011 của Chính phủ, không cấp phép, đưa vào xây dựng, vận hành, khai thác các cơ sở chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về BVMT; Tăng cường năng lực quan trắc, thực hiện giám sát môi trường thường xuyên, đảm bảo luôn cập nhật, nắm chắc thực trạng và diễn biến chất lượng môi trường trên địa bàn tỉnh.

            Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm BVMT: Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cán bộ, đảng viên, nhân dân và doanh nghiệp về công tác BVMT. Xây dựng các chương trình truyền thông, các chuyên mục, phóng sự thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức, trách nhiệm BVMT của người dân, của toàn xã hội; Xây dựng xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn môi trường phù hợp với Chương trình xây dựng nông thôn mới; hàng năm tổ chức kiểm tra, đánh giá, coi đây là một trong những tiêu chí quan trọng của xã, phường, thị trấn, hộ gia đình văn hóa; Nâng cao nhận thức, trách nhiệm BVMT đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh; phổ biến, hướng dẫn các kiến thức về môi trường và BVMT một cách khoa học cho cộng đồng dân cư; khuyến khích các đoàn thể, tổ chức xã hội tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao ý thức tự giác BVMT cho người dân.

            Đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT: Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công tác BVMT, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động BVMT; Nâng cao vai trò của các Đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội trong công tác BVMT. Tăng cường giám sát, đưa BVMT vào nội dung hoạt động của các khu dân cư trong cộng đồng; Khai thác tối đa các nguồn đầu tư từ xã hội cho công tác BVMT. Phát hiện, xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong hoạt động BVMT. Đưa nội dung BVMT vào cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và vào tiêu chuẩn thi đua khen thưởng.

            Áp dụng các biện pháp kinh tế trong quản lý, BVMT: Nghiên cứu chỉ đạo thực hiện tốt việc thu phí BVMT theo quy định của Chính phủ, coi đây là một công cụ kinh tế hữu hiệu để tạo nguồn lực quản lý BVMT; Áp dụng các chế tài cụ thể, xử phạt nghiêm các tổ chức, cá nhân thải chất gây ô nhiễm ra môi trường, đặc biệt tại nội thị, khu dân cư các thị trấn, thị tứ. Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia dịch vụ môi trường để thu gom xử lý các loại chất thải. Xây dựng, thành lập quỹ môi trường để hỗ trợ, khuyến khích các hoạt động BVMT. Thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA. Quản lý các nguồn vốn đầu tư cho BVMT của tỉnh theo hướng tiết kiệm và hiệu quả, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Tranh thủ tối đa các nguồn tài chính của Trung ương thông qua các chương trình, dự án ưu tiên về BVMT thực hiện trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải, bãi xử lý rác.

            Giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với BVMT: Thu gom và xử lý toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng phương pháp khoa học, ưu tiên cho việc tái sử dụng, tái chế chất thải, hạn chế tối đa khối lượng chôn lấp. Chấm dứt việc đổ rác thải không đúng nơi quy định và xả chất thải, nước thải chưa được xử lý theo tiêu chuẩn môi trường vào môi trường tiếp nhận; Quan tâm coi trọng công tác BVMT trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Bảo vệ nghiêm ngặt rừng tự nhiên, tích cực trồng rừng phòng hộ ven biển, rừng chắn sóng; bảo vệ các loài động thực vật hoang dã, quý hiếm; giảm tối thiểu việc sử dụng hóa chất trong canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Ngăn chặn việc dùng các phương tiện đánh bắt có tính hủy diệt nguồn lợi thủy sản, hải sản; nghiêm cấm việc chặt phá rừng ngập mặn ven biển; Xác lập cơ chế cung cấp tài chính dài hạn và hàng năm trong lĩnh vực BVMT với quan điểm đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững; Phát triển các hình thức cung cấp nước sạch cùng với việc bảo vệ nguồn nước, kiểm kê các dạng tài nguyên nước và có quy hoạch, biện pháp khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên, phù hợp với đặc điểm sinh thái; Chú trọng BVMT các làng nghề bằng biện pháp cải tiến công nghệ, xây dựng hệ thống xử lý chất thải hoặc quy hoạch các khu làng nghề với hệ thống kết cấu hạ tầng đạt tiêu chuẩn môi trường.

            Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực về môi trường: Thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ mới về BVMT, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp và xử lý chất thải. Phối hợp với các trung tâm, cơ quan của Trung ương đóng trên địa bàn nghiên cứu, đào tạo nhân lực về BVMT, đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ trong công tác quản lý nhà nước về môi trường; Tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, khuyến khích các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, ứng dụng các đề tài khoa học, đưa ra các sáng kiến đem lại hiệu quả kinh tế cao thuộc lĩnh vực xử lý môi trường.

            Xây dựng đề án thành lập Quỹ BVMT, cân đối nguồn ngân sách, tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác BVMT.

            Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong BVMT: Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường. Tranh thủ tối đa nguồn hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ các nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân cho công tác BVMT của tỉnh.

Nguyễn Hằng

Nguồn: Tạp chí MT, số 8/2013

Ý kiến của bạn