Banner trang chủ

Cần có giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn Nhãn sinh thái tại Việt Nam

27/08/2025

    Ngày 27/8/2025, tại Hà Nội, Cục Môi trường - Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Báo Tiền phong tổ chức Tọa đàm “Thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững thông qua Nhãn sinh thái”. Tọa đàm có sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước, chuyên gia, hiệp hội và các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, kinh doanh sản phẩm Nhãn sinh thái ở miền Bắc.

    Phát biểu khai mạc Tọa đàm, ông Phùng Công Sưởng, Tổng Biên tập Báo Tiền Phong cho biết, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang gây ra những hệ lụy ngày càng nặng nề như nắng nóng cực đoan, mưa lũ bất thường, ô nhiễm không khí, rác thải nhựa tràn lan… Không còn là cảnh báo xa vời, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đã trở thành thực tế cấp bách ngay trước mắt, đã và đang trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi con người. Trong bối cảnh đó, sản xuất và tiêu dùng bền vững không chỉ là xu thế, mà là yêu cầu bắt buộc nếu để phát triển lâu dài và bền vững. Doanh nghiệp cần thay đổi tư duy sản xuất, giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên; người tiêu dùng cần có lựa chọn thông minh, ưu tiên sản phẩm xanh, thân thiện môi trường.

Ông Phùng Công Sưởng, Tổng Biên tập Báo Tiền Phong phát biểu khai mạc Tọa đàm

    Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rõ định hướng xây dựng nền kinh tế xanh, tuần hoàn, thân thiện môi trường, trong đó, sản xuất và tiêu dùng bền vững là một trụ cột quan trọng, không chỉ để bảo vệ môi trường mà còn nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Một trong những công cụ hữu hiệu để hiện thực hóa mục tiêu này chính là “Nhãn sinh thái”. Đây không chỉ là dấu hiệu nhận diện sản phẩm thân thiện với môi trường, mà còn là “hộ chiếu xanh”, giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiếp cận người tiêu dùng thông minh, có trách nhiệm. Với người tiêu dùng, Nhãn sinh thái mang lại niềm tin, là cơ sở lựa chọn những sản phẩm an toàn, chất lượng và có lợi cho môi trường sống. Thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua Nhãn sinh thái chính là sự kết hợp giữa trách nhiệm của doanh nghiệp và sự lựa chọn thông minh của người tiêu dùng, dưới sự thúc đẩy và hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nước.

    Ông Phùng Công Sưởng chia sẻ, những năm qua, Báo Tiền Phong đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực để góp phần lan tỏa ý thức bảo vệ môi trường như Cuộc thi giấc mơ xanh, các hoạt động trồng rừng ngập mặn, chuỗi các hội nghị về phân loại rác tại nguồn ở nhiều địa phương… Tiếp nối thành công đó, Toạ đàm “Thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững thông qua Nhãn sinh thái” được tổ chức nhằm tạo diễn đàn để các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, chuyên gia cùng nhau trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất giải pháp, từ đó, chung tay tháo gỡ những khó khăn, tận dụng cơ hội và lan tỏa mạnh mẽ hơn nữa giá trị của Nhãn sinh thái, góp phần BVMT xanh, sạch, đẹp, bền vững.

    Chia sẻ về vấn đề này, ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, tại Việt Nam, hệ thống pháp lý về Nhãn xanh được hình thành từ Luật BMT năm 2005, 2014 và hoàn thiện trong Luật BVMT năm 2020. Năm 2009, Chương trình thí điểm được triển khai, tập trung vào hai nhóm: Sản phẩm được chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam và túi ni lông thân thiện môi trường (gồm túi phân hủy, túi tái chế). Về phía Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Bộ đã ban hành tiêu chí cụ thể cho các nhóm này và một số doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận mặc dù số lượng còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực đổi mới công nghệ, chính sách ưu đãi chưa rõ ràng, nhiều quy định mới dừng ở luật mà thiếu văn bản hướng dẫn.

    Phó Cục trưởng Lê Hoài Nam dẫn chứng, Luật quy định thuế BVMT 40.000 đồng/kg đối với túi ni lông khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích sản xuất, sử dụng túi sinh học. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục sản xuất loại túi ni lông khó phân hủy. Đến Luật BVMT năm 2020, Luật đã tích hợp các quy định về Nhãn sinh thái thành một hệ thống thống nhất - Nhãn sinh thái Việt Nam, đồng thời bổ sung ưu đãi với sản phẩm, dịch vụ xanh. Đáng chú ý, các dự án đầu tư công khi mời thầu sẽ ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Đây được coi là bước tiến quan trọng, kỳ vọng sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào sản xuất xanh, bền vững.

Ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát biểu tại Tọa đàm

    Tại Tọa đàm, các đại biểu tham dự đã cùng nhau trao đổi, thảo luận về định hướng chính sách, kinh nghiệm thực tiễn, nhu cầu từ thị trường và vai trò truyền thông trong thay đổi hành vi tiêu dùng… Theo các chuyên gia, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm tài nguyên đang ngày càng nghiêm trọng, chuyển dịch sang sản xuất và tiêu dung bền vững không chỉ là xu hướng toàn cầu mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam. Một trong những công cụ quan trọng để thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững là sản phẩm chứng nhận Nhãn sinh thái - chỉ dấu của các sản phẩm thân thiện với môi trường trong suốt vòng đời, từ sản xuất đến tiêu dùng và xử lý.

    Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam được Bộ Tài nguyên và Môi trường, nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai từ năm 2009, nhằm khuyến khích sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường, giúp người tiêu dùng nhận diện và ưu tiên sử dụng sản phẩm xanh. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ triển khai, số lượng sản phẩm được cấp Nhãn sinh thái còn rất khiêm tốn. Số liệu báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, đến năm 2017 đã có 17 tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam được công bố, làm căn cứ để chứng nhận nhãn xanh Việt Nam đối với sản phẩm thân thiện với môi trường, trong đó, 7 tiêu chí được áp dụng làm căn cứ chứng nhận nhãn xanh Việt Nam đối với 112 loại sản phẩm. Trong hai năm 2024 và 2025 có thêm 13 sản phẩm được chứng nhận Nhãn sinh thái, cho thấy còn nhiều khó khăn, thách thức và rào cản để đưa công cụ này thực sự phát huy hiệu quả.

PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu phát biểu

    Theo PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, câu chuyện về Nhãn sinh thái không phải mới, bởi ngay cả trước khi Luật BVMT và chính sách thuế, phí môi trường ra đời, vấn đề này đã được đề cập. Tuy nhiên, việc triển khai trên thực tế hiện vẫn còn nhiều khía cạnh cần bàn. Trước hết phải nói đến vai trò của doanh nghiệp - chủ thể chính trong việc thực hiện Nhãn sinh thái. Doanh nghiệp cần có khả năng đáp ứng các tiêu chí, quy định mà Nhãn sinh thái đặt ra. Việc chuyển đổi từ sản phẩm chưa có nhãn sang sản phẩm được dán nhãn là cả một quá trình dài và tốn kém. Vấn đề thứ hai liên quan đến thị trường tiêu dung, cần có định hướng trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh sản phẩm để thu hút người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm dán Nhãn sinh thái. Yếu tố thứ ba là chính sách. Thực tế, chính sách của Việt Nam thường có độ trễ, sau khi Luật BVMT được ban hành cùng với các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính trong định hướng chuyển đổi xanh, vẫn còn nhiều điểm phải điều chỉnh. Điều này cho thấy dù chính sách về môi trường đã có bước tiến, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn vẫn gặp nhiều điểm nghẽn cần tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ. Mối quan hệ giữa các chính sách cần được tăng cường để hình thành cơ chế rõ ràng, giúp doanh nghiệp hiểu, nắm vững và thực sự có khả năng áp dụng Nhãn sinh thái.

TS. Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường phát biểu

    TS. Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu khi thế giới cùng lúc đối mặt ba cuộc khủng hoảng môi trường lớn. Việt Nam đã có khung chính sách khá đầy đủ, từ Văn kiện Đại hội XIII, Nghị quyết 24, Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn đến Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam triển khai từ năm 2009. Nhận thức tiêu dùng cũng thay đổi khi 86% người Việt sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm thân thiện môi trường, 62% quyết định mua bị tác động bởi cam kết xanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các FTA và yêu cầu môi trường ngày càng khắt khe từ EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc cùng với xu thế chuyển đổi số, ứng dụng AI đang tạo sức ép và cơ hội cho quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, kết quả áp dụng Nhãn sinh thái sau hơn 20 năm vẫn khiêm tốn. Đến năm 2017, Việt Nam có 17 tiêu chí Nhãn xanh, trong đó 7 tiêu chí áp dụng cho 112 sản phẩm; giai đoạn 2024 - 2025 chỉ thêm 13 sản phẩm được chứng nhận. Người tiêu dùng trong nước vẫn quan tâm nhiều hơn đến an toàn thực phẩm, trong khi rào cản công nghệ, chi phí và thủ tục hành chính tiếp tục là trở ngại lớn.

Quang cảnh Tọa đàm

    Trên cơ sở đó, TS. Nguyễn Trung Thắng cho rằng, cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn Nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song là vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung. Nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một “sân chơi” và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn Nhãn sinh thái. Phải xây dựng các nhóm tiêu chí phù hợp cho từng ngành hàng, gắn với lộ trình chuyển đổi xanh và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, để doanh nghiệp dễ áp dụng, còn người mua dễ nhận biết. Điều quan trọng là có một khung quy định rõ ràng, đồng bộ, ổn định, đi kèm với hướng dẫn thực thi cụ thể, giúp doanh nghiệp chủ động đáp ứng tiêu chí, giảm vướng mắc trong chứng nhận và đưa sản phẩm ra thị trường.

Các đại biểu tham dự Tọa đàm chụp ảnh lưu niệm

    Bên cạnh đó, TS. Nguyễn Trung Thắng đề nghị cần cải cách thủ tục hành chính để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dự án hỗ trợ, cũng như nguồn vốn vay ưu đãi cho phát triển xanh. Việc đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian xử lý, tăng cường số hóa quy trình sẽ góp phần giảm chi phí tuân thủ, từ đó thúc đẩy cả phía cung lẫn cầu đối với sản phẩm gắn Nhãn sinh thái. Nên cân nhắc chuyển giao vai trò cấp chứng nhận Nhãn sinh thái cho các tổ chức độc lập, thay vì để cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện.

Nguyệt Minh

Ý kiến của bạn