Banner trang chủ
Thứ Năm, ngày 28/03/2024

Lấy ý kiến tham vấn các chuyên gia quốc tế về sửa đổi, bổ sung Luật BVMT năm 2014

16/12/2019

     Ngày 13/12/2019, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân đã chủ trì cuộc họp lấy ý kiến tham vấn các chuyên gia quốc tế về sửa đổi, bổ sung Luật BVMT năm 2014. Tham dự cuộc họp có các chuyên gia đến từ các Đại sứ quán, các tổ chức quốc tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Ngân hàng thế giới, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới...

     Phát biểu tại cuộc họp, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân cho biết, Luật BVMT năm 2014 có nhiều tiến bộ, đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước cũng như quản lý môi trường của các địa phương, doanh nghiệp, hướng đến phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực tế trong 5 năm qua cũng bộc lộ một số tồn tại, trong đó có sự chồng chéo với các luật khác và diễn biến về môi trường ở Việt Nam ngày càng phức tạp. Trước yêu cầu thực tiễn cũng như các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, rất cần phải sửa đổi, bổ sung Luật BVMT để phục vụ công tác quản lý nhà nước về BVMT, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các đối tượng liên quan.

 

Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân phát biểu tại cuộc họp

 

     Để đảm bảo Luật BVMT sau khi sửa đổi tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế, Bộ TN&MT xây dựng Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BVMT và mời các chuyên gia, các tổ chức, nhà khoa học góp ý cho Dự thảo Luật. Thứ trưởng mong muốn, các chuyên gia, các nhà khoa học và các tổ chức quốc tế với kinh nghiệm của mình đóng góp ý kiến để Bộ TN&MT hoàn thiện Luật BVMT, đảm bảo thống nhất, đồng bộ với pháp luật liên quan, tạo hành lang pháp lý về BVMT, thúc đẩy sự phát triển bền vững.  

     Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BVMT năm 2014 có nhiều điểm mới

     Theo Báo cáo về những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BVMT năm 2014 của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Hưng Thịnh, trong Dự thảo sửa đổi đã bãi bỏ rất nhiều quy định, giảm nhiều thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo được công tác quản lý, BVMT như: Thu hẹp đối tượng phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược so với Luật BVMT 2014. Theo đó, các chiến lược, kế hoạch không phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược. Dự thảo Luật chỉ quy định đối tượng phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược là các quy hoạch theo quy định trong Luật quy hoạch.

     Quy định đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường (ĐTM) bảo đảm thống nhất với dự án đầu tư, đầu tư xây dựng theo tiêu chí phân loại của Luật Đầu tư công. Chỉ các dự án đầu tư xây dựng mới có công trình xử lý chất thải và các dự án khác có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mới phải thực hiện báo cáo ĐTM. Các dự án khác không thuộc quy định nêu trên và dự án áp dụng kỹ thuật tốt nhất hiện có không phải thực hiện ĐTM.

     Bên cạnh đó, Dự thảo Luật quy định cơ chế khuyến khích các dự án áp dụng kỹ thuật tốt nhất hiện có (BAT) và áp dụng thực hành môi trường tốt nhất (BEP), cụ thể: Các dự án áp dụng BAT được miễn ĐTM; các dự án áp dụng BEP thì việc thẩm định theo hình thức đơn giản là lấy ý kiến, bảo đảm thông thoáng, đơn giản thủ tục hành chính; Bỏ thủ tục phê duyệt báo cáo ĐTM và sửa đổi việc thẩm định báo cáo ĐTM theo hướng báo cáo ĐTM do chủ dự án lập, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ quan thẩm định chỉ phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định thiết kế xây dựng, cấp giấy phép xây dựng, cấp giấy phép khai thác khoáng sản… Người quyết định đầu tư sẽ tự phê duyệt các nội dung BVMT cùng với phê duyệt dự án đầu tư theo quy định, bảo đảm thống nhất, đồng bộ với pháp luật về đầu tư, xây dựng và phù hợp với thông lệ quốc tế.

 

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Hưng Thịnh báo cáo những điểm mới

của Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật BVMT

 

     Dự thảo Luật cũng bỏ kế hoạch BVMT đối với các dự án ít có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và đề xuất bỏ quy định “tiền kiểm” về xác nhận kế hoạch BVMT, thay vào đó là “hậu kiểm” bằng giấy phép môi trường, đồng thời kiểm soát được chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không có dự án bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Dự thảo Luật hợp nhất, tích hợp 7 loại giấy phép về môi trường và xả nước thải vào nguồn nước hiện có thành giấy phép môi trường, bao gồm: giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT; giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu; giấy phép xử lý chất thải nguy hại; sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại; giấy phép xả khí thải; xác nhận kế hoạch BVMT (chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm); tích hợp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, công trình thủy lợi.

     Bổ sung các quy định về BVMT gắn với phát triển bền vững

     Quy hoạch BVMT được sửa đổi bảo đảm thống nhất, đồng bộ với pháp luật về quy hoạch và yêu cầu BVMT, trong đó quy định rõ nội dung chính của quy hoạch BVMT quốc gia, nội dung BVMT trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Quy định về phân vùng môi trường là một nội dung của quy hoạch BVMT, Dự thảo Luật đưa ra quy định 3 mức độ phân vùng môi trường: bảo vệ nghiêm ngặt; hạn chế tác động và vùng còn lại để làm căn cứ quyết định cho phép các dự án phát triển.

     Sửa đổi, bổ sung quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu phải gắn với phát triển bền vững, tăng cường khả năng chống chịu của tự nhiên và xã hội, hướng tới nền kinh tế các bon thấp, tận dụng được cơ hội do biến đổi khí hậu mang lại. Bổ sung quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có yêu cầu đánh giá tác động, tình trạng dễ bị tổn thương và rủi ro do biến đổi khí hậu đối với các đối tượng người dân, lĩnh vực, khu vực dựa trên cơ sở kịch bản biến đổi khí hậu và dự báo phát triển kinh tế - xã hội.

     Quản lý chất thải là một trong các nội dung BVMT quan trọng, đã được quy định trong Luật BVMT 2014, tuy nhiên, chưa đầy đủ, chưa thống nhất, nhất là đối với chất thải rắn sinh hoạt. Một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn, tiến bộ khoa học kỹ thuật và yêu cầu phát triển kinh tế tuần hoàn. Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung các nội dung, coi chất thải là tài nguyên: Chất thải đã được phân định, phân loại sử dụng cho quá trình sản xuất khác là nguyên, nhiên, vật liệu cho ngành sản xuất khác, nhằm thúc đẩy tuần hoàn, tái chế, tái sử dụng chất thải; đối với chất thải nguy hại: Chuyển chất thải phóng xạ sang phạm vi quản lý của Luật Năng lượng nguyên tử; đối với chất thải rắn thông thường: Quy định rõ việc phân loại chất thải rắn thông thường bao gồm chất thải rắn thông thường phát sinh từ hoạt động sinh hoạt hàng ngày của hộ gia đình, cá nhân được nhà nước hỗ trợ; đối với chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn công nghiệp thông thường: Thực hiện theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.

     Dự thảo sửa đổi Luật BVMT cũng bổ sung thuế BVMT, mua sắm xanh và chính sách ưu đãi, hỗ trợ sản xuất, phân phối và sử dụng sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; quy định về bảo đảm mức chi cho BVMT không dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng dần tỷ lệ này theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

     Nhiều kinh nghiệm quốc tế trong BVMT

     Góp ý về vấn đề phân vùng môi trường, TS. Michael Parsons - Chuyên gia tư vấn chính sách của Bộ TN&MT lưu ý, việc phân vùng môi trường cần dựa trên đặc điểm địa lý, địa chất, như một số khu vực ở Việt Nam có độ dốc lớn, dễ bị tổn thương. Phân vùng môi trường cũng cần gắn với phân vùng quy hoạch sử dụng đất một cách hợp lý. Ông Kim In Hwan, chuyên gia về chính sách, nguyên Thứ trưởng Bộ Môi trường Hàn Quốc cho rằng, ĐTM liên quan đến quá trình quy hoạch khi phát triển các dự án phát triển hạ tầng ở quy mô lớn. Quy trình cấp phép môi trường chỉ quan tâm đến các cơ sở gây ô nhiễm. Đây là công cụ chính sách để có thể bảo vệ được môi trường, là yếu tố đóng vai trò quan trọng và chủ đạo. Các cơ sở gây ô nhiễm phải nhận được giấy phép trước khi được hoạt động. Khi cấp ĐTM và giấy phép môi trường, phải thận trọng để tránh chồng chéo, có thể tạo gánh nặng kép cho doanh nghiệp.

     Quan tâm đến vấn đề xã hội trong ĐTM, đại diện của Ngân hàng thế giới nhấn mạnh, cần định nghĩa đúng về tác động môi trường, tác động xã hội, ở đó, lưu ý đến tác động trực tiếp, tác động gián tiếp để làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách sau này. Hiện nay ở Việt Nam, quá trình tham vấn ĐTM vẫn còn khoảng cách so với thông lệ quốc tế. Cần lưu ý tham vấn không chỉ đối với những người chịu tác động trực tiếp mà còn cần lưu ý đến những người chịu tác động gián tiếp.

     Chia sẻ trong việc cấp giấy phép BVMT, Ông Jörg Rüger - Đại sứ quán Cộng hòa liên bang Đức cho biết, tại Đức, Giấy phép BVMT sẽ được xem xét cấp trước khi xây dựng, hồ sơ cấp phép có đánh giá cả vòng đời của nhà máy từ khi xây dựng đến khi phá dỡ, trong quá trình xây dựng nhà máy sẽ được tiếp tục đánh giá chuyên sâu, trước khi đi vào hoạt động phải có giấy phép hoạt động.

     Về kiểm soát ô nhiễm, theo đại diện tổ chức JICA Nhật Bản, cần quy định rõ việc trao đổi chất thải giữa các cơ sở sản xuất với nhau để tránh nguồn gây ô nhiễm thứ cấp. Ở Nhật Bản, sau khi phân loại rõ các nhóm chất thải, nếu không gây ô nhiễm thứ cấp thì có thể trao đổi xử lý, khi đó, có quy trình theo dõi giám sát chặt chẽ, tránh ô nhiễm sau này. Nhật Bản đã xây dựng thiết lập chế độ người quản lý kiểm soát ô nhiễm tại các nhà máy. Người đó phải trải qua các quá trình tập huấn, có kinh nghiệm để quản lý, có khả năng phát hiện ra vấn đề trước khi vấn đề xảy ra, đồng thời giảm thiểu gánh nặng cho hành chính của doanh nghiệp…

     Trên cơ sở các ý kiến góp ý, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân chỉ đạo Tổ soạn thảo tiếp thu và chỉnh sửa, bổ sung vào Luật BVMT. Thứ trưởng cho biết, Dự thảo Luật sửa đổi sẽ được đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử để lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và Bộ sẽ tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm để hoàn thiện Dự thảo Luật, trình Quốc hội xem xét ban hành vào năm 2020. 

 

An Bình (Theo Monre)

Ý kiến của bạn