09/12/2025
Vườn quốc gia (VQG) Cát Bà được thành lập ngày 31/3/1986 theo Quyết định số 79-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), nằm trên địa giới hành chính 2 tỉnh (Hải Phòng và Quảng Ninh). Ngày 6/4/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 333/QĐ-TTg về việc chuyển VQG Cát Bà thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) về TP. Hải Phòng quản lý. VQG là khu vực có giá trị đa dạng sinh học (ĐDSH) đặc biệt của Việt Nam, với hơn 4.000 loài sinh vật và nhiều hệ sinh thái (HST) quan trọng như rừng trên núi đá vôi, rạn san hô và thảm cỏ biển. Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), đặc biệt là gia tăng du lịch và tác động của biến đổi khí hậu, các HST tại Cát Bà đang chịu áp lực suy thoái rõ rệt. Tổng hợp dữ liệu giai đoạn 2014-2024 cho thấy, công tác tuần tra bảo vệ rừng, kiểm soát khai thác tài nguyên, cứu hộ động vật hoang dã và ứng dụng công nghệ đã góp phần duy trì ổn định sinh cảnh, song rạn san hô và cỏ biển vẫn suy giảm. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp tăng cường thể chế, mở rộng giám sát công nghệ cao, phục hồi hệ sinh thái trọng điểm, thúc đẩy sinh kế bền vững và tăng cường hợp tác quốc tế nhằm đảm bảo bảo tồn hiệu quả trong giai đoạn tới.
1. Giá trị đa dạng sinh học tại VQG Cát Bà
Quần đảo Cát Bà là nơi hội tụ hệ thống các HST đặc trưng của vùng biển - đảo phía Bắc Việt Nam, bao gồm rừng trên núi đá vôi với diện tích khoảng 17.040 ha, rừng ngập mặn phân bố chủ yếu ở các vịnh kín, các thảm cỏ biển với 6 loài đã được ghi nhận, các rạn san hô có diện tích khảo sát khoảng 400 ha, cùng HST biển - ven bờ giàu dinh dưỡng. HST đa dạng này tạo điều kiện cho sự tồn tại của hơn 4.000 loài sinh vật, trong đó nhiều loài quý hiếm và đặc hữu như Sơn dương, Lan hài đốm, Bò khai và đặc biệt là Voọc Cát Bà. Đây là loài linh trưởng đặc hữu cực kỳ nguy cấp, nằm trong danh sách 25 loài linh trưởng bị đe dọa nhất thế giới, với số lượng quần thể hiện tại ước tính chỉ 75-80 cá thể, phân bố trong 6 nhóm chính trên đảo.
Số liệu thống kê đến năm 2024, VQG Cát Bà đã ghi nhận hơn 4.000 loài sinh vật, phản ánh mức độ ĐDSH đặc biệt cao của một quần đảo nhiệt đới gió mùa và sự hội tụ của nhiều kiểu HST khác nhau. Hệ thực vật của khu vực gồm 1.595 loài thực vật bậc cao, với nhiều loài đặc hữu gắn liền với sinh cảnh núi đá vôi như Lan hài đốm, Bò khai, Giảo cổ lam. Nền tảng thực vật phong phú này tạo ra cấu trúc sinh thái đặc trưng cho rừng trên núi đá vôi - một HST rất nhạy cảm trước biến động môi trường nhưng lại có giá trị bảo tồn cao.
Hệ động vật có xương sống trên cạn được xác định gồm 357 loài, trong đó có 63 loài thú, 209 loài chim, 58 loài bò sát và 27 loài lưỡng cư. Sự hiện diện của nhiều loài chim định cư và chim di cư theo mùa cho thấy vai trò quan trọng của Cát Bà như một “điểm dừng sinh thái” trong đường di cư Đông Á - Úc. Nhóm bò sát và lưỡng cư phong phú phản ánh tính chất nhiệt đới ẩm của quần đảo, đồng thời là chỉ số nhạy cảm đối với biến động khí hậu và chất lượng môi trường.
Ở môi trường biển, các khảo sát đã ghi nhận 177 loài san hô, 196 loài cá biển và 658 loài động vật đáy, thể hiện sự đa dạng của HST rạn và nền đáy mềm. Đặc biệt, thảm cỏ biển tại Cát Bà gồm 6 loài, trong đó Halophila ovalis đóng vai trò quan trọng đối với quá trình sinh sản, ươm dưỡng và cung cấp thức ăn cho sinh vật biển, bao gồm các loài cá rạn, giáp xác và rùa biển. Đây cũng là sinh cảnh có chức năng hấp thụ carbon (blue carbon) quan trọng đối với thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu (BĐKH) ven bờ.
Giá trị nổi bật nhất của Cát Bà là quần thể Voọc Cát Bà, loài đặc hữu toàn cầu và thuộc nhóm linh trưởng cực kỳ nguy cấp. Từ mức chỉ 40-50 cá thể vào năm 2000, quần thể này đã phục hồi lên khoảng 75-80 cá thể vào giai đoạn 2023-2024, phân bố trong 6 nhóm sinh cảnh riêng biệt. Mặc dù có xu hướng tăng, quần thể vẫn đối mặt với nguy cơ dài hạn do sự chia cắt sinh cảnh, thiếu kết nối quần thể, sự xáo trộn do hoạt động du lịch leo núi - tham quan, và những biến động khí hậu ảnh hưởng đến nguồn thức ăn tự nhiên. Các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra tính đa dạng di truyền của loài thấp, làm tăng tính dễ tổn thương trước các thay đổi môi trường.
Số liệu thống kê rạn san hô tại Cát Bà cho thấy, diện tích rạn san hô có khoảng 400 ha, với độ phủ san hô cứng trung bình dao động 18-30%. Một số khu vực, đặc biệt ở gần các tuyến giao thông thủy và điểm du lịch, ghi nhận mức suy thoái 20-40% do ảnh hưởng của đục nước, neo đậu tàu thuyền, ô nhiễm hữu cơ và các đợt tẩy trắng liên quan đến BĐKH. Sự suy giảm rạn san hô kéo theo sự mất mát sinh cảnh của các loài cá rạn, động vật thân mềm, giáp xác và làm giảm khả năng duy trì nguồn lợi thủy sản địa phương.
Những dữ liệu trên khẳng định rằng Cát Bà không chỉ là một điểm nóng về ĐDSH của Việt Nam mà còn là khu vực có vai trò chiến lược trong bảo tồn các HST đặc hữu và dễ tổn thương. Đồng thời, chúng cho thấy sự cần thiết của các biện pháp phục hồi, quản lý thích ứng và giám sát lâu dài nhằm duy trì giá trị sinh thái và bền vững của quần đảo trong bối cảnh BĐKH và áp lực phát triển KT-XH ngày càng gia tăng.
Sự phát triển KT- XH nhanh chóng, đặc biệt là sự bùng nổ du lịch trong thập kỷ gần đây, đang tạo ra sức ép lớn lên tài nguyên môi trường tại Cát Bà. Lượng khách du lịch tăng từ 2,1 triệu lượt năm 2015 lên 5,2 triệu lượt năm 2023, dẫn đến gia tăng đáng kể lượng rác thải sinh hoạt (ước tính 4.00 - 6.000 tấn/năm) và rác thải nhựa trôi nổi trên biển (khoảng 60-80 tấn mùa cao điểm). Sự gia tăng hoạt động giao thông thủy, dịch vụ du lịch và nuôi trồng thủy sản cũng gây xáo trộn sinh cảnh, làm gia tăng áp lực lên các rạn san hô và thảm cỏ biển vốn rất nhạy cảm.
BĐKH đang trở thành mối đe dọa ngày càng rõ rệt đối với HST Cát Bà. Mực nước biển khu vực vịnh Bắc bộ tăng trung bình 3,4 mm/năm, làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn và thay đổi cấu trúc hệ sinh thái ven bờ. Nhiệt độ nước biển tăng đã gây ra ba đợt tẩy trắng san hô lớn vào các năm 2014, 2019 và 2023, khiến độ phủ san hô tại nhiều khu vực suy giảm 20 - 40%. Những tác động cộng hưởng này đang làm giảm khả năng phục hồi tự nhiên của các HST biển.
Trong bối cảnh đó, việc đánh giá một cách hệ thống hiện trạng ĐDSH, xác định các nguy cơ suy thoái và đề xuất các giải pháp bảo tồn phù hợp với điều kiện phát triển KT- XH mới là yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo sự ổn định, bền vững của HST Cát Bà và giá trị của Di sản thiên nhiên thế giới.
Về hoạt động bảo vệ rừng và tài nguyên, trong giai đoạn gần đây, công tác bảo vệ rừng và tài nguyên thiên nhiên tại VQG Cát Bà được triển khai đồng bộ và thường xuyên, góp phần quan trọng trong việc duy trì ổn định các hệ sinh thái rừng và biển. Trung bình mỗi năm, VQG tổ chức 2.600-2.800 lượt tuần tra, kiểm tra, bao gồm tuần tra đường bộ, đường rừng, tuyến biển và các khu vực có nguy cơ khai thác trái phép. Bên cạnh đó, lực lượng kiểm lâm và cán bộ bảo tồn đã xử lý từ 70-90 vụ vi phạm liên quan đến xâm hại tài nguyên rừng, khai thác thủy sản trái phép, săn bắt buôn bán động vật hoang dã và các hành vi gây tác động đến cảnh quan sinh thái.
Một trong những kết quả nổi bật là việc gỡ bỏ 1.100-1.500 bẫy thú mỗi năm tại các khu vực trọng điểm như rừng Kim Giao, khu vực Trung Trang - Gia Luận, các thung lũng rừng đá vôi và các điểm giáp ranh với cộng đồng dân cư. Việc kiểm soát bẫy thú không chỉ giúp giảm thiểu nguy cơ săn bắt trái phép mà còn tạo điều kiện phục hồi cho các loài thú quý như Voọc Cát Bà, Sơn dương và nhiều loài chim đặc hữu.
Ở môi trường biển, công tác kiểm soát hoạt động của tàu thuyền du lịch được tăng cường. Mỗi năm, VQG tiến hành kiểm tra 1.500-2.000 lượt phương tiện du lịch và phương tiện khai thác thủy sản nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định về hành trình, neo đậu, xả thải và bảo vệ rạn san hô. Việc quản lý chặt chẽ hoạt động trên biển góp phần giảm thiểu nguy cơ đụng chạm san hô, ô nhiễm dầu mỡ và chất thải nhựa tại các vịnh du lịch như Vạn Bội, Lan Hạ, Việt Hải.
Nhờ các biện pháp tuần tra, kiểm soát và tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng, công tác bảo vệ rừng tại Cát Bà đã có chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong việc hạn chế phá rừng và khai thác lâm sản trái phép. Thực tế cho thấy không ghi nhận các vụ phá rừng lớn trong nhiều năm gần đây, đường biên rừng và diện tích rừng tự nhiên được duy trì ổn định. Điều này góp phần bảo vệ hiệu quả sinh cảnh của nhiều loài động - thực vật quý hiếm và duy trì tính toàn vẹn của HST núi đá vôi đặc thù tại Cát Bà.
Về công tác cứu hộ, bảo tồn và tái thả động vật hoang dã, từ năm 2018 đến 2024, VQG Cát Bà đã tiếp nhận và cứu hộ 145 cá thể động vật hoang dã, trong đó 80% được tái thả trở lại tự nhiên sau khi chăm sóc phục hồi. Các loài được cứu hộ chủ yếu bao gồm rùa biển (vích, đồi mồi), các loài rùa cạn, mèo rừng, cầy vòi, trăn và nhiều loài chim bản địa. Đáng chú ý, đã có 4 chiến dịch cứu hộ - tái thả rùa biển được thực hiện, góp phần duy trì quần thể tự nhiên và nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo tồn động vật nguy cấp. Hoạt động cứu hộ kết hợp với tuyên truyền cộng đồng, kiểm soát thị trường và tăng cường tuần tra đã giúp hạn chế đáng kể tình trạng nuôi nhốt, săn bắt và buôn bán động vật hoang dã trong khu vực.
Bên cạnh đó, VQG Cát Bà đẩy mạnh chương trình tuyên truyền – giáo dục cộng đồng, tiếp cận trung bình 15.000 lượt người dân và du khách mỗi năm, tập trung vào thông điệp không tiêu thụ, buôn bán hoặc nuôi nhốt động vật hoang dã. Công tác tuần tra và kiểm soát được tăng cường với hơn 300 lượt tuần tra hỗn hợp mỗi năm, giúp giảm khoảng 40% số vụ vi phạm liên quan đến săn bắt và buôn bán động vật hoang dã so với giai đoạn 2015-2018.
Công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ cũng được VQG đẩy mạnh. Giai đoạn 2017-2023, VQG Cát Bà đã triển khai 28 đề tài khoa học cấp cơ sở và 8 đề tài cấp thành phố/Trung ương, tập trung vào các lĩnh vực như bảo tồn Voọc Cát Bà, phục hồi rạn san hô, đánh giá biến đổi khí hậu, nghiên cứu chim di cư và quản lý HST rừng đá vôi.
Về ứng dụng công nghệ, VQG đã sử dụng hơn 30 camera bẫy ảnh phục vụ giám sát động vật hoang dã, triển khai hệ thống UAV trong giám sát cháy rừng, theo dõi rạn san hô và kiểm tra hoạt động tàu thuyền. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu GIS với hơn 5.000 điểm dữ liệu sinh học cho phép theo dõi biến động hệ sinh thái theo thời gian. Một số nghiên cứu đang thử nghiệm trí tuệ nhân tạo (AI) để nhận diện cá thể Voọc Cát Bà nhằm hỗ trợ theo dõi quần thể và quản lý sinh cảnh. Các kết quả nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dữ liệu khoa học phục vụ hoạch định chính sách bảo tồn dựa trên bằng chứng.
2. Những thách thức trong bối cảnh mới
Mặc dù, đạt nhiều kết quả tích cực, công tác bảo tồn tại Cát Bà vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Sự phát triển KT- XH nhanh chóng, đặc biệt là sự bùng nổ du lịch trong thập kỷ gần đây, đang tạo ra sức ép lớn lên tài nguyên môi trường tại Cát Bà. Lượng khách du lịch tăng từ 2,1 triệu lượt năm 2015 lên 5,2 triệu lượt năm 2023, dẫn đến gia tăng đáng kể lượng rác thải sinh hoạt (ước tính 4.00 - 6.000 tấn/năm) và rác thải nhựa trôi nổi trên biển (khoảng 60-80 tấn mùa cao điểm). Trong môi trường biển, rác thải nhựa và chất thải hữu cơ từ nuôi trồng thủy sản tiếp tục là vấn đề đáng quan ngại, làm suy giảm chất lượng nước và ảnh hưởng trực tiếp đến rạn san hô, cỏ biển. Sự gia tăng hoạt động giao thông thủy, dịch vụ du lịch và nuôi trồng thủy sản cũng gây xáo trộn sinh cảnh, làm gia tăng áp lực lên các rạn san hô và thảm cỏ biển vốn rất nhạy cảm.
BĐKH đang trở thành mối đe dọa ngày càng rõ rệt đối với HST Cát Bà. Mực nước biển khu vực vịnh Bắc bộ tăng trung bình 3,4 mm/năm, làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn và thay đổi cấu trúc hệ sinh thái ven bờ. Nhiệt độ nước biển tăng đã gây ra ba đợt tẩy trắng san hô lớn vào các năm 2014, 2019 và 2023, khiến độ phủ san hô tại nhiều khu vực suy giảm 20 - 40%. Những tác động cộng hưởng này đang làm giảm khả năng phục hồi tự nhiên của các HST biển. Ngoài ra, hoạt động khai thác thủy sản quá mức, đặc biệt là nghề lưới kéo và nghề lặn bắt hải sản, gây suy giảm trữ lượng nhiều loài kinh tế quan trọng. Mặt khác, nguồn lực hạn chế, bao gồm nhân lực chuyên môn, trang thiết bị giám sát và kinh phí dành cho bảo tồn, vẫn là rào cản lớn trong việc triển khai các chương trình bảo tồn dài hạn.
Trong bối cảnh đó, việc đánh giá một cách hệ thống hiện trạng ĐDSH, xác định các nguy cơ suy thoái và đề xuất các giải pháp bảo tồn phù hợp với điều kiện phát triển KT- XH mới là yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo sự ổn định, bền vững của HST Cát Bà và giá trị của Di sản thiên nhiên thế giới.
3. Đề xuất giải pháp
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và tăng cường nguồn lực cho bảo tồn
Việc bảo tồn ĐDSH tại Cát Bà cần được đặt trong khung thể chế đặc thù của khu Di sản thiên nhiên thế giới. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy hoạch và phân vùng chức năng, bao gồm khu vực bảo vệ nghiêm ngặt, khu phục hồi sinh thái và khu dịch vụ - hành chính, nhằm đảm bảo hài hòa giữa bảo tồn và phát triển KT – XH; Tăng cường đầu tư tài chính ổn định cho hoạt động bảo tồn thông qua nguồn ngân sách Nhà nước, cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES), quỹ bảo tồn doanh nghiệp và hỗ trợ quốc tế; Nâng cao năng lực cho lực lượng bảo tồn, bao gồm đào tạo chuyên môn, đầu tư trang thiết bị tuần tra, phương tiện giám sát biển và hạ tầng dữ liệu.
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong giám sát và quản lý
Việc sử dụng công nghệ hiện đại đóng vai trò quan trọng trong quản lý tài nguyên tại khu vực có địa hình phức tạp như Cát Bà. Các giải pháp đề xuất gồm: Mở rộng hệ thống bẫy ảnh, camera tự động và UAV, phục vụ giám sát liên tục động vật hoang dã, tình trạng rừng, rạn san hô và hoạt động tàu thuyền; Ứng dụng AI trong nhận diện cá thể Voọc Cát Bà, phân tích biến động quần thể và xây dựng bản đồ phân bố sinh cảnh quan trọng; Phát triển cơ sở dữ liệu GIS mở, lưu trữ và tích hợp dữ liệu từ các nguồn quan trắc khác nhau, hỗ trợ ra quyết định trong quy hoạch bảo tồn; Ứng dụng công nghệ số và mô hình dự báo biến đổi khí hậu, nhằm đánh giá kịch bản tác động đến san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn; Tăng cường ứng dụng công nghệ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý dựa trên bằng chứng khoa học, giảm phụ thuộc vào các hoạt động tuần tra thủ công.
Thứ ba, phục hồi các hệ sinh thái trọng điểm và bảo tồn loài nguy cấp
Các HST đặc thù của Cát Bà như rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn và rừng đá vôi đang chịu tác động mạnh, cần được ưu tiên phục hồi theo cách tiếp cận sinh thái cảnh quan. Các giải pháp bao gồm: Phục hồi rạn san hô bằng bộ khung nhân tạo, kỹ thuật cấy mảnh san hô và giám sát dài hạn, tập trung tại các khu vực suy thoái 20-40%; Mở rộng diện tích cỏ biển và rừng ngập mặn, kết hợp với kiểm soát bùn cát và giảm ô nhiễm từ hoạt động nuôi trồng thủy sản; Xây dựng và duy trì hành lang sinh thái nhằm kết nối 6 nhóm Voọc Cát Bà, giảm chia cắt sinh cảnh và tăng khả năng trao đổi di truyền; Tăng cường bảo tồn loài nguy cấp, bao gồm Voọc Cát Bà, Sơn dương, rùa biển và một số loài thực vật đặc hữu; Phát triển chương trình nhân giống - tái thả có kiểm soát… Các biện pháp này hướng tới duy trì tính toàn vẹn sinh thái và gia tăng khả năng chống chịu của các HST trước BĐKH.
Thứ tư, đồng quản lý tài nguyên và phát triển sinh kế bền vững
Cộng đồng địa phương đóng vai trò rất quan trọng trong bảo tồn tài nguyên, nhằm giảm áp lực khai thác và tăng sinh kế bền vững, cần triển khai: Cơ chế đồng quản lý rừng và vùng biển ven bờ, khuyến khích cộng đồng tham gia giám sát, bảo vệ và đồng chịu trách nhiệm với các tài nguyên chung; Phát triển mô hình sinh kế xanh, bao gồm nuôi biển tuần hoàn, du lịch sinh thái, du lịch không rác thải nhựa, dịch vụ vận tải thân thiện môi trường; Nâng cao nhận thức cộng đồng, đặc biệt về bảo vệ rạn san hô, giảm sử dụng nhựa dùng một lần và hạn chế khai thác hải sản tận diệt; Khuyến khích mô hình kinh tế tuần hoàn và kinh tế biển xanh, giảm thiểu chất thải và tăng giá trị sản xuất trên đơn vị tài nguyên.
Thứ năm, mở rộng hợp tác quốc tế và tăng cường liên kết vùng
Cát Bà có tiềm năng lớn trong thu hút hợp tác quốc tế về bảo tồn, đặc biệt do là phần mở rộng của Di sản thiên nhiên thế giới. Để phát huy thế mạnh này, cần: Tăng cường hợp tác với UNESCO, thực hiện Chương trình giám sát Di sản và trao đổi kinh nghiệm quản lý; Mở rộng dự án hợp tác với các tổ chức quốc tế, đặc biệt trong phục hồi san hô, quản lý rừng đá vôi và bảo tồn linh trưởng; Thúc đẩy liên kết vùng giữa Hải Phòng - Quảng Ninh, hướng tới quản lý thống nhất vùng Di sản Vịnh Hạ Long - Cát Bà; Tiếp nhận nguồn tài trợ quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, bảo tồn biển và chuyển đổi sinh kế.
Vũ Hồng Vân
Vườn quốc gia Cát Bà
Lê Thu Quỳnh
Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 11/2025)
Tài liệu tham khảo
1. Bộ TN&MT (2021). Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo Quốc gia giai đoạn 2016-2030.
2. Mai Sỹ Luân (2013), “Nghiên cứu tập tính sử dụng vùng sống của hai cá thể Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalusTrouessart, 1911) tại VQG Cát Bà, Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp, Đại học Lâm nghiệp, Hà Nội.
3. Tạ Tuyết Nga (2014), “Nghiên cứu đặc điểm sinh thái và tập tính của loài Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalusTrouessart, 1911) tại VQG Cát Bà, Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp, Đại học Lâm nghiệp, Hà Nội.
4. UNESCO (2023). Hồ sơ đề cử Di sản thiên nhiên thế giới “Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà”.
5. VQG Cát Bà. Báo cáo thường niên giai đoạn 2014-2024.