Banner trang chủ

Cần tích hợp các yếu tố về môi trường và xã hội vào các hoạt động đầu tư của ngân hàng

04/01/2021

     Báo cáo Đánh giá Ngành Ngân hàng Bền vững (SUSBA) năm 2020 của WWF cho thấy, các ngân hàng đã có những tiến bộ trong việc tích hợp khía cạnh về môi trường và xã hội (E&S) vào các hoạt động đầu tư, tuy nhiên, các ngân hàng cũng cần đẩy mạnh tham vọng hơn nữa để phù hợp với những thay đổi trên toàn cầu. SUSBA 2020 là lần đánh giá thứ tư của WWF về các hoạt động đầu tư của 5 ngân hàng Nhật Bản và 5 ngân hàng Hàn Quốc cùng với 38 ngân hàng của ASEAN trong năm 2020.

     Thế giới đã và đang trải qua đại dịch COVID-19 với những diễn biến phức tạp, kéo theo các cuộc khủng hoảng về kinh tế. Cuộc khủng hoảng đã cho thấy tầm quan trọng của việc tăng cường khả năng phục hồi của nhân loại đối với rủi ro về E&S. Trong bối cảnh đó, các hoạt động đầu tư của ngành ngân hàng đã có những tiến bộ đáng kể trong việc chuyển dịch tài chính các tổ chức và tập đoàn kinh doanh theo hướng bền vững hơn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề lớn khiến các danh mục đầu tư của các ngân hàng này có thể gặp rủi ro từ biến đổi khí hậu (BĐKH) và tổn thất môi trường thiên nhiên. Vì vậy, SUSBA đã xem xét 6 khía cạnh về tích hợp tổng thể các yếu tố Môi trường, Xã hội và Quản trị - ESG (Mục đích, Chính sách, Quy trình, Con người, Sản phẩm, Danh mục) trong hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, đánh giá năm nay bao gồm một chuyên mục mới - Ngành và Vấn đề - trong đó xem xét các chính sách ngành.

     Bên cạnh việc đánh giá các ngân hàng tại ASEAN, SUSBA năm 2020 còn khảo sát các ngân hàng lớn của Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong đầu tư doanh nghiệp, không chỉ ở trong nước mà còn ở khu vực Đông Nam Á. Sự phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế châu Á đòi hỏi một cách tiếp cận hài hòa trong đầu tư phát triển bền vững, theo đó tất cả các ngân hàng đều có thể đóng góp vào sự phát triển bền vững và thúc đẩy cách tiếp cận này thông qua việc đưa các ngân hàng này vào đánh giá SUSBA năm 2020.

     Kết quả đánh giá cho thấy, hơn 75% các ngân hàng trong khối ASEAN có tiến bộ, và gần 30% cải thiện trên ít nhất 10% số tiêu chí đánh giá kể từ năm 2019. Mặc dù số ngân hàng ASEAN đáp ứng ít nhất một nửa trong tổng số 70 tiêu chí đã tăng gấp đôi, từ 4 lên 8 ngân hàng, nhưng con số này vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Các ngân hàng Hàn Quốc đạt cùng mức điểm trung bình với nhóm ASEAN, trong khi các ngân hàng Nhật Bản có kết quả cao hơn mức trung bình này.

     Hầu hết, hiện nay các ngân hàng nhận thức được BĐKH là một vấn đề mang tính toàn cầu và cần phải có hành động khẩn cấp. Trong đó có 32/38 ngân hàng ASEAN (chiếm 84,2%), cũng như 3 ngân hàng Hàn Quốc (chiếm 60%) và 5 ngân hàng Nhật Bản (chiếm 100%), nhận ra những thách thức to lớn mà BĐKH đặt ra đối với xã hội, so với 19 ngân hàng ASEAN năm 2019. Trên 8 quốc gia thuộc khu vực ASEAN, chỉ có 3 ngân hàng (chiếm 7,9%)  thừa nhận rằng các hoạt động tài trợ của họ có tác động đến việc dịch chuyển nguồn tài chính theo hướng bền vững. Do đó, các ngân hàng ngày càng sử dụng các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) như một cách để đóng góp của họ cho xã hội: 30 ngân hàng ASEAN (chiếm 78,9%), 4 ngân hàng Hàn Quốc (chiếm 80%) và 5 ngân hàng Nhật Bản (chiếm 100%) đã đưa các SDGs vào chiến lược hoặc tầm nhìn của họ, nhiều hơn 10 ngân hàng ASEAN so với năm 2019. Tuy nhiên, trong khi tất cả các ngân hàng Hàn Quốc và Nhật Bản đều xem xét tài trợ có trách nhiệm và các vấn đề liên quan đến BĐKH, thì chỉ có 28 ngân hàng ASEAN thực hiện việc này. Đây là một sự cải thiện còn khiêm tốn so với con số 25 đã khảo sát vào năm ngoái, điều này cho thấy một số ngân hàng vẫn chưa quan tâm đến sự khủng hoảng khí hậu.

     Mặt khác, các ngân hàng cũng chưa có sự quan tâm thích đáng đối với các rủi ro từ suy thoái môi trường và vấn đề xã hội. Hơn 1/3 số ngân hàng (14 ASEAN, 1 ngân hàng Hàn Quốc và 3 ngân hàng Nhật Bản) nhận ra tình trạng khẩn cấp gây ra từ những rủi ro về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, chỉ có 5 ngân hàng ASEAN và không có ngân hàng Hàn Quốc hay Nhật Bản nào tiến hành đánh giá toàn bộ danh mục đầu tư về rủi ro E&S. Những rủi ro này bao gồm việc mất rừng, đa dạng sinh học, khan hiếm nước, quyền lao động và thường đan xen với các rủi ro liên quan đến khí hậu. Điều quan trọng hiện nay là các ngân hàng phải áp dụng các biện pháp bảo vệ mạnh mẽ để giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tất cả các vấn đề về E&S.

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã triển khai hoạt động tín dụng xanh đối với

các dự án năng lượng sạch, nông nghiệp xanh và xử lý chất thải

     Trong khi 24 ngân hàng ASEAN, 2 ngân hàng Hàn Quốc và 2 ngân hàng Nhật Bản tiết lộ một khuôn khổ để tiến hành thẩm định E&S, thì hầu hết các ngân hàng không tiết lộ cách họ tích hợp quản lý rủi ro E&S vào quy trình phê duyệt và giám sát tín dụng của họ. Chỉ 11 ngân hàng xem xét hồ sơ rủi ro E&S của khách hàng định kỳ, trong khi chỉ sáu ngân hàng nêu rõ một quy trình để giải quyết tình trạng không tuân thủ chính sách ngân hàng kéo dài. Điều này có thể cho thấy, các ngân hàng không có các thủ tục cần thiết để thực hiện các chính sách E&S một cách mạnh mẽ.

     Đối với những rủi ro về ô nhiễm nguồn nước, chỉ có 8 ngân hàng (chiếm khoảng 21%) ngân hàng khối ASEAN và 1 ngân hàng Hàn Quốc (chiếm 20%) thừa nhận rủi ro này. Một ngân hàng Nhật Bản và một số ngân hàng khối ASEAN công nhận ô nhiễm nước là một nguy cơ, tuy nhiên lại bỏ qua các mối đe dọa về khan hiếm nước hoặc lũ lụt. Không ngân hàng nào yêu cầu khách hàng phải tiến hành đánh giá rủi ro nước hoặc thực hành quản lý nước. Tuy nhiên, rủi ro về nước có thể lên tới mức trọng yếu với các doanh nghiệp, với giá trị rủi ro lên tới 425 tỷ USD trên toàn cầu.

      Phân tích Ngành và Vấn đề cho thấy, các ngân hàng Hàn Quốc và Nhật Bản đang thực hiện các bước để giảm tài trợ về than. Ngân hàng Shinhan và 5 ngân hàng Nhật Bản có chính sách cấm tài trợ cho các dự án nhà máy nhiệt điện than, mặc dù các chính sách này vẫn có ngoại lệ đối với một số loại công nghệ hoặc thu giữ các-bon. MUFG, Mizuho và SMBC cũng đã công bố các mốc thời gian để chấm dứt tài trợ về than. Tuy nhiên,  có 34 các ngân hàng khối ASEAN (chiếm 91%) được đánh giá tiếp tục tài trợ cho các nhà máy nhiệt điện than mới. DBS, OCBC và UOB là các ngân hàng khối ASEAN duy nhất cấm cấp vốn cho các dự án nhiệt điện than mới trong khi CIMB đã công bố ý định ban hành chính sách than vào cuối năm 2020. Việc tiếp tục đầu tư cho than khiến các ngân hàng phải đối mặt với rủi ro chuyển đổi liên quan đến khí hậu, như thuế các-bon và công nghệ lỗi thời.

     Một tín hiệu mừng và đáng khích lệ là 20 ngân hàng khối ASEAN (chiếm 53%) hiện đang làm việc với các cơ quan quản lý về chủ đề đầu tư phát triển bền vững - tăng cao so với mức 31% vào năm ngoái. So với các ngân hàng khối ASEAN, các ngân hàng Việt Nam còn cần phải cải thiện hơn nữa trong việc công bố các chính sách, bao gồm các chính sách ngành, đào tạo nhân lực ngành, và việc tích hợp ESG trong các sản phẩm và dịch vụ. Điều này cũng đúng đối với thực tế của các ngân hàng trong khối ASEAN.

     Trong thời gian qua, WWF-Việt Nam hợp tác với ngành ngân hàng và các công ty tài chính lớn nhằm thúc đẩy thực hành tài chính bền vững tại Việt Nam. Thông qua chương trình này, WWF-Việt Nam đã đào tạo cho hơn 500 cán bộ ngân hàng trong ngành và tổ chức các cuộc hội thảo song phương về các vấn đề ESG. WWF đánh giá 5 ngân hàng dựa theo tiêu chí của SUSPA. Các đánh giá này được thực hiện nhằm giúp các ngân hàng hiểu được làm thế nào họ có thể cải thiện tích hợp các yếu tố ESG trong hoạt động của mình.

     Bước sang năm 2021 sẽ là một thách thức nhưng lại rất quan trọng trong bối cảnh thế giới đang phải chiến đấu với đại dịch Covid-19. Ngân hàng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, bên cạnh việc giúp các doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch, các ngân hàng còn đóng vai trò trong điều hướng các trường hợp khẩn cấp về khí hậu và thiên nhiên. Cuộc khủng hoảng này đã cho thấy rằng xã phải đối mặt với rủi ro về thiên nhiên nhiều hơn bao giờ hết, vì vậy, các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác cần thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để có các giải pháp tài chính bền vững, đảm bảo rằng con đường phía trước hướng tới một tương lai ít cácbon, bền vững và phục hồi, trong đó con người sống hòa hợp với thiên nhiên.

Phú Hà

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 12/2020)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ý kiến của bạn