Banner trang chủ
Thứ Sáu, ngày 19/04/2024

Đề xuất mở rộng đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường

23/02/2023

    Bộ Tư pháp đang chuẩn bị Dự thảo báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (2021 - 2026), trong đó, một trong những định hướng sửa đổi đáng chú ý là mở rộng đối tượng chịu thuế BVMT.

    Theo đó, đề nghị bổ sung Dự án Luật thuế BVMT (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025 của Quốc hội. Một trong những định hướng sửa đổi đáng chú ý trong dự thảo báo cáo là mở rộng đối tượng chịu thuế BVMT. Cụ thể, ngoài túi ni lông đang thuộc diện chịu thuế, sẽ bổ sung hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm vào diện chịu thuế với tên gọi chung là “bao bì khó phân hủy sinh học”. Khung thuế BVMT đối với bao bì khó phân hủy sinh học dự kiến tương đương với mức thu thuế môi trường của các nước. Mục đích là nhằm hạn chế sử dụng túi ni lông, hộp nhựa xốp… cũng như chưa khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm thay thế.

    Nhiều nước trên thế giới đang áp dụng mức thuế môi trường cao hoặc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi ni lông. Ví dụ: Anh: 5 penny/túi, tương đương 1.400 đồng/túi; Ailen: 22 cent/túi, tương đương 6.600 đồng/túi; Hong Kong (Trung Quốc): 50 cent/túi, tương đương 1.500 đồng/túi; Estonia đang dự kiến thu thuế đối với túi nilon ở mức 2 kroons/túi, tương đương 3.000 đồng/túi... Một số nước khác còn cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon. Ví dụ Trung Quốc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon có độ dày nhỏ hơn 0,025 mm; Ấn Độ cấm sử dụng túi mỏng dưới 50 micron; Đài Loan (Trung Quốc) cấm sử dụng túi nhựa mua sắm mỏng hơn 0,06 mm. Trong khi Mỹ cấm hoàn toàn sử dụng túi ni lông ở hầu hết các bang thì Malaixia cấm sử dụng túi ni lông tại một số khu vực, nếu muốn sử dụng thì phải trả mức thuế là 20 cent/túi, tương đương 1.040 đồng/túi.

Hộp nhựa xốp khó phân hủy được đề xuất đưa vào đối tượng chịu thuế BVMT

    Hiện tại Việt Nam được đánh giá là một trong những nước sử dụng túi ni lông nhiều nhất trên thế giới, bình quân mỗi hộ gia đình sử dụng 1kg túi/tháng, riêng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh một ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi ni lông (phần lớn là túi khó phân hủy). Cũng như nhiều nước khác, Việt Nam cũng áp dụng thuế BVMT như một trong những công cụ quan trọng nhất để kéo giảm việc sử dụng túi ni lông khó phân hủy với mức 50.000 đồng/kg. So với các nước, có thể thấy khung và mức thuế BVMT của Việt Nam là rất thấp, đáng lo ngại hơn, vì nhiều lý do, tình trạng thất thu ngân sách từ thuế BVMT với túi ni lông rất đáng báo động.

    Theo thống kê, nếu nhân mức thuế BVMT với lượng túi ni lông nước ta tiêu thụ thì số tiền thu được phải là hàng chục nghìn tỷ đồng nhưng ngân sách chỉ thu được khoảng 70 tỷ đồng - số tiền quá nhỏ để có thể tác động đến hành vi sản xuất và tiêu dùng túi mặt hàng này. Vì vậy, đưa hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm vào diện chịu thuế cùng với túi ni lông và tăng thuế suất BVMT với những mặt hàng này là cần thiết để ngăn ngừa tình trạng “ô nhiễm trắng”. Mức tăng bao nhiêu thì các cơ quan chức năng cần phải tính toán kỹ lưỡng. Tuy nhiên, điều có thể chắc chắn là phải cải thiện khả năng “hành thu” thuế BVMT đối với túi ni lông, hộp nhựa xốp mới mong công cụ này phát huy hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, các nhà làm chính sách nên xem xét đánh thuế theo số lượng túi, hộp nhựa xốp thay vì trên khối lượng như hiện nay. Điều này giúp tránh được tình trạng sản xuất nhiều hơn các loại túi ni lông mỏng vốn gây tác hại lớn hơn đến môi trường. Khi chi phí đội lên buộc các nhà bán lẻ phải cân nhắc nghiêm túc về số lượng túi phát miễn phí cho khách hàng hoặc buộc người tiêu dùng phải chia sẻ chi phí này. Có như vậy mới hy vọng khiến người dân thay đổi thói quen dùng túi ni lông, hộp nhựa xốp tràn lan rồi xả ra môi trường gây ô nhiễm.

Hoàng Đàn

Ý kiến của bạn