11/09/2025
Việt Nam đã lựa chọn phát triển thị trường các-bon như một trong những giải pháp chủ yếu để giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu giảm phát thải vào năm 2030 và hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Báo cáo tại Hội thảo tham vấn “Đánh giá tác động đối với hoạt động giao dịch tín chỉ các-bon và kết quả giảm nhẹ từ Việt Nam ra thị trường quốc tế” do Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức mới đây, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu Nguyễn Tuấn Quang cho biết, Việt Nam đã khẩn trương xây dựng và ban hành khung pháp lý quan trọng. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 lần đầu tiên quy định về "Tổ chức và phát triển thị trường các-bon" tại Điều 139. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và tiếp tục sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 119/2025/NĐ-CP. Lộ trình thí điểm thị trường từ nay đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029. Sắp tới, hệ thống đăng ký và sàn giao dịch các-bon sẽ là nền tảng cho hoạt động giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon. Các cơ quan liên quan đang triển khai các hoạt động nhằm thí điểm sàn giao dịch các-bon ngay trong năm 2025.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng Dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon và dự kiến trình Chính phủ ban hành trong năm 2025. Ông Quang nhấn mạnh, thị trường các-bon của Việt Nam không chỉ giới hạn trong nước mà còn gắn với giao dịch quốc tế theo Điều 6.2 của Thỏa thuận Paris. Vì vậy, các chính sách phải được xây dựng vừa phù hợp thực tiễn, vừa có tầm nhìn dài hạn.
Thời gian qua, Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên hợp quốc (UNOPS), thông qua Chương trình Chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP), đã hỗ trợ kỹ thuật cho Cục Biến đổi khí hậu trong việc đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải và tín chỉ các-bon tại Việt Nam. Đây là thông tin đầu vào quan trọng, giúp Bộ Nông Nghiệp và Môi trường hoàn thiện Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon.
Về nguyên tắc, hoạt động trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải phải ưu tiên phục vụ mục tiêu quốc gia trong thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và mục tiêu phát thải ròng bằng “0”, tuận thủ pháp luật của Việt Nam và Thỏa thuận Paris. Các dự án phải đảm bảo chất lượng tín chỉ. Kết quả phải được đăng ký trên hệ thống đăng ký quốc gia, doanh thu từ trao đổi được quản lý theo pháp luật tài chính.
Nghị định cũng sẽ làm rõ quy định về điều chỉnh tương ứng. Khi bên chuyển giao kết quả giảm nhẹ phát thải cho bên đối tác để thực hiện cam kết khí hậu, thì bên chuyển giao phải trừ (điều chỉnh giảm) lượng phát thải đã chuyển nhượng ra khỏi báo cáo kết quả thực hiện NDC quốc gia của mình. Ngược lại, bên mua tín chỉ các-bon sẽ cộng (điều chỉnh tăng) kết quả giảm phát thải vào báo cáo để chứng minh mình đã hoàn thành một phần nghĩa vụ NDC. Điều này nhằm đảm bảo tính minh bạch và tránh tính trùng kết quả giảm phát thải giữa các quốc gia khi đánh giá tiến độ thực hiện Thỏa thuận Paris.
Hoạt động đánh giá tác động của việc giao dịch tín chỉ các-bon và kết quả giảm nhẹ từ Việt Nam ra thị trường quốc tế được thực hiện từ tháng 5/2025 đến tháng 8/2025. Các chuyên gia đã mô hình hóa và phân tích định lượng nhằm cung cấp thông tin cho việc xây dựng phương án quản lý tín chỉ các-bon tại Việt Nam.
Trưởng nhóm Dự án, chuyên gia về chính sách khí hậu Nguyễn Hồng Loan, GreenCIC cho biết, nghiên cứu đã xây dựng và đánh giá 9 kịch bản dựa trên hai yếu tố chính - danh mục các hoạt động đủ điều kiện để được chấp thuận chuyển giao quốc tế, và tỷ lệ kết quả giảm nhẹ giữ lại để đảm bảo mục tiêu NDC quốc gia.
Về nguồn cung, nghiên cứu xem xét hai phương án: Kịch bản S20 chỉ cho phép giao dịch tín chỉ từ 20 biện pháp giảm nhẹ đóng góp hoàn toàn cho mục tiêu NDC có điều kiện, và kịch bản S56 mở rộng cho 56 biện pháp đóng góp cho cả mục tiêu NDC có điều kiện và không điều kiện.
Tương ứng với đó, hạn mức giao dịch được thiết lập là 90% đối với kịch bản S20, và hai mức 70% hoặc 50% đối với kịch bản S56, nhằm quản lý rủi ro tránh bán quá mức và vẫn đảm bảo mục tiêu NDC quốc gia. Giá bán được xác định là một trong những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến kết quả đánh giá tác động của các kịch bản. Các mức giá được phân thành ba khoảng: cao, trung bình, và thấp cho từng nhóm người mua. Bên cạnh đó, các yếu tố quan trọng khác như thứ tự ưu tiên đối tác mua, cơ chế thuế và phí giao dịch cũng được lồng ghép vào từng kịch bản.
Các đại biểu tham dự Hội thảo
Về kết quả đánh giá, các chuyên gia cho rằng, việc đặt hạn mức giao dịch rất cần thiết để đảm bảo yêu cầu điều chỉnh tương ứng theo Thỏa thuận Paris và đóng góp vào mục tiêu NDC của Việt Nam. Nếu giữ lại 50% tín chỉ, Việt Nam có thể đảm bảo tới 62% mục tiêu NDC không điều kiện; trong khi nếu giữ lại 30%, tỷ lệ đóng góp là 37,3%.
Các chuyên gia khuyến nghị, Việt Nam nên tiếp cận theo từng bước, khởi đầu với mức trần giao dịch thận trọng 50%. Khi năng lực giảm phát thải KNK trong nước được củng cố và mức độ tin cậy vào khả năng hoàn thành mục tiêu không điều kiện gia tăng, mức trần có thể nâng lên 70%, qua đó hiện thực hóa toàn bộ mục tiêu NDC có điều kiện với sự hỗ trợ quốc tế.
Sơn Tùng