Banner trang chủ
Thứ Sáu, ngày 29/03/2024

Chuyển đổi số - Xu hướng tất yếu giúp doanh nghiệp phát triển bền vững

03/01/2023

    Trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, doanh nghiệp (DN) Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Trong bối cảnh này, chuyển đổi số là yêu cầu, xu hướng tất yếu, khách quan để cộng đồng DN đứng vững và phát triển. Không những thế, khi chuyển đổi diễn ra toàn diện, môi trường cũng sẽ có những chuyển biến tích cực. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Tạp chí Môi trường có cuộc phỏng vấn ông Lê Văn Khương - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ DN nhỏ và vừa phía Bắc, Cục Phát triển DN, Bộ Kế hoạch và đầu tư.

    PV: Ông có thể chia sẻ đôi điều về sự cần thiết cũng như lợi ích khi DN thực hiện chuyển đổi số trong phát triển sản xuất kinh doanh?

    Ông Lê Văn Khương: Hiện có nhiều định nghĩa, cách hiểu khách nhau về chuyển đổi số. Tuy nhiên, từ góc độ DN, chuyển đổi số có thể được hiểu là việc tích hợp, áp dụng công nghệ số để nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiệu quả quản lý, năng lực, sức cạnh tranh của DN và tạo ra các giá trị mới. Chuyển đổi số được xem là giải pháp hữu hiệu, là quá trình chuyển đổi mô hình kinh doanh hiệu quả hơn của DN, tạo ra được giá trị mới từ mô hình kinh doanh này, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của DN. Quá trình này có thể thực hiện qua các giai đoạn khác nhau, từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp như số hóa dữ liệu quản lý, kinh doanh của DN, áp dụng công nghệ số để tự động hóa, tối ưu hóa quy trình nghiệp vụ, quy trình quản lý, sản xuất kinh doanh và chuyển đổi toàn bộ mô hình kinh doanh, tạo thêm giá trị mới cho DN. Theo nhận định của các chuyên gia, chuyển đổi số trong sự lan tỏa của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 không còn là sự lựa chọn mà đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu để DN có thể thực sự đứng vững trước thời cuộc. Vì vậy, chuyển đổi số đòi hỏi tổ chức phải có một quyết tâm thay đổi từ "gốc rễ", liên tục thách thức những thói quen, không ngừng thử nghiệm cái mới và học làm quen với thất bại.

Ông Lê Văn Khương - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ DN nhỏ và vừa phía Bắc, Cục Phát triển DN,

Bộ Kế hoạch và đầu tư (Thứ 2 từ trái sang) tham dự Hội thảo “chuyển đổi số để nâng cao

nâng suất và hiệu quả đội ngũ tại DN” tổ chức ngày 19/3/2021

    Chuyển đổi số tuy là khái niệm mới, nhưng kết quả đạt được nhờ ứng dụng công nghệ số tại các DN là rất đáng khích lệ và cần thiết trong thời đại công nghệ 4.0, giúp tối ưu chi phí vận hành, chi phí nhân sự; phân tích, bảo mật dữ liệu tốt hơn; ra quyết định nhanh chóng, chính xác; tập trung mở rộng tập khách hàng và thị trường tiềm năng; tăng hiệu suất kinh doanh và sản xuất. Đồng thời, sáng tạo các sản phẩm/dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu thực tiễn; phân khúc thị trường chính xác; trải nghiệm khách hàng với thị trường rộng hơn, tăng sự đổi mới cho nhân sự; tạo liên kết giữa các phòng ban trong nội bộ tổ chức và tăng tỷ lệ tiếp xúc khách hàng mọi lúc mọi nơi…

    Hiện nay, nhiều nhà quản trị vẫn còn băn khoăn trong việc áp dụng chuyển đổi số vì cho rằng phải thay đổi hoàn toàn một hệ thống tổ chức hay chuyển đổi ngay lập tức tất cả mô hình kinh doanh của cả DN. Nhưng sự thật, chuyển đổi số chính là việc bắt đầu từ những bước đi nhỏ, theo thời gian sẽ đạt được lợi ích to lớn. Thông thường, tại DN tồn tại nhiều đầu việc thủ công, có tính chất lặp lại, gây mất thời gian và giảm hiệu suất làm việc của nhân viên, ngoài ra, việc tiêu tốn lượng giấy lớn cho việc lưu trữ dữ liệu gây tốn kém diện tích, dễ hư hỏng do tác động của ngoại cảnh và việc tra cứu cũng rất khó khăn. Vì vậy, chuyển đổi số sẽ giúp số hoá tài liệu bằng cách chuyển toàn bộ tài liệu bản cứng sang dạng tài liệu mềm, thuận tiện cho việc sàng lọc, tìm kiếm, chia sẻ thông tin, kéo dài tuổi thọ của tài liệu và tiết kiệm không gian lưu trữ. Việc ứng dụng các phần mềm, giải pháp công nghệ vào quá trình xử lý dữ liệu cũng sẽ giúp DN đơn giản hóa quá trình xử lý, quản trị cơ sở dữ liệu của đơn vị; nhanh chóng đáp ứng yêu cầu khắt khe của thời đại công nghệ 4.0 với tốc độ biến đổi chóng mặt cũng như phục vụ đầy đủ nhu cầu mà khách hàng đưa ra.

    PV: Được nhận định là xu thế tất yếu của sự phát triển, là giải pháp sinh tồn đối với mọi ngành nghề, lĩnh vực trong bối cảnh dịch bệnh như hiện nay, vậy các DN tại Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi số như thế nào?

    Ông Lê Văn Khương: Từ xu thế của thế giới và thực tiễn của đất nước, có thể nói rằng, chuyển đổi số là xu thế tất yếu, định hướng đúng đắn trong bối cảnh hiện nay, nhằm góp phần khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống dịch bệnh hiệu quả, bảo vệ an ninh quốc phòng, hội nhập, nâng cao vai trò, vị thế, tiềm lực và uy tín của đất nước.

    Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với mục tiêu tổng quát “Tận dụng hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng 4.0 đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số, phát triển nhanh, bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, BVMT sinh thái”. Tiếp đó, ngày 30/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.Tiếp đến là các Quyết định kiện toàn và đổi tên Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử thành Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số… Điều này cho thấy sự quan tâm của Thủ tướng Chính phủ đối với nội dung chuyển đổi số quốc gia. Ngoài ra, thời gian qua, các bộ/ban, ngành, địa phương, hiệp hội, dự án của các tổ chức quốc tế… cũng đã có nhiều chương trình hành động, đề án, hoạt động thúc đẩy chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Hiện đã có hàng trăm giải pháp của các nhà cung cấp dịch vụ, hạ tầng số, nền tảng số và giải pháp số… phục vụ quá trình chuyển đổi số của DN. Việc triển khai đồng bộ từ nhận thức đến hành động và chương trình, hoạt động cụ thể kỳ vọng sẽ hướng tới phát triển mạnh mẽ Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Đại dịch Covid-19 vừa qua đã có tác động nghiêm trọng đến các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để DN Việt Nam tái cấu trúc hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, trong đó có hoạt động chuyển đổi số, tạo ra giá trị mới trong kinh doanh. Mặt khác, chính sự thay đổi của các yếu tố chính sách, thị hiếu khách khách hàng, biến động thị trường, cạnh tranh, dịch Covid-19… cũng là tác nhân chính thúc đẩy các DN thực hiện chuyển đổi số. Đặc biệt, DN Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực trong nhận thức về lợi ích của việc áp dụng chuyển đổi số vào sản xuất, kinh doanh, cụ thể, khảo sát các DN FAST500 do Vietnam report tiến hành vào tháng 3/2021 cho thấy, 90% DN quan tâm về chuyển đổi số; 30% chủ DN cho rằng chuyển đổi số là vấn đề sống còn của DN và 54,5% DN thuộc TOP500 DN tăng trưởng nhanh nhất cho biết sẽ ứng dụng chuyển đổi số trong kinh doanh vào năm 2021.

Chuyển đổi số giúp cho hoạt động quản lý dòng đời sản phẩm, quy trình vận hành của DN trong lĩnh vực công nghiệp môi trường hiệu quả hơn

    Với cấu trúc đa số các DN có quy mô nhỏ và vừa (DNNVV), kèm theo đó là những hạn chế về tiềm lực tài chính, nhân sự, quản trị… DN Việt Nam gặp nhiều hạn chế trong quá trình triển khai chuyển đổi số như khó khăn về chi phí đầu tư, ứng dụng công nghệ số; lo ngại sự thay đổi, thói quen làm việc, tập quán kinh doanh, vấn đề rò rỉ, mất mát dữ liệu DN; việc lựa chọn giải pháp số phù hợp, hiệu quả; cam kết lâu dài của nhà cung cấp giải pháp; thiếu cam kết, hiểu biết của người lao động và nhân lực thực hiện... Tuy nhiên, các DN, nhất là DNNVV cũng có những thuận lợi nhất định bởi quy mô nhỏ sẽ dễ thay đổi quy trình, thói quen làm việc (so với các DN lớn); chất lượng hạ tầng số ngày càng cao, có nhiều thuận lợi cho DN chuyển đổi số; thị trường giải pháp số đa dạng, nhiều nhà cung cấp giải pháp cạnh tranh; khung pháp lý về số hóa (hợp đồng số, giao dịch số, dữ liệu số…) ngày càng hoàn thiện.

    PV: Bất kỳ hình thức kinh doanh nào cũng sẽ có những tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường, như vậy, bức tranh môi trường sẽ thay đổi ra sao nếu các DN tham gia chuyển đổi số, thưa ông?

    Ông Lê Văn Khương: Chuyển đổi số trong hoạt động BVMT chủ yếu là hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa trong quản lý môi trường, như quan trắc tự động, liên tục; phần mềm quản lý môi trường nội bộ; vận hành hệ thống xử lý nước thải tự động; theo dõi lộ trình vận chuyển chất thải thông qua hệ thống định vị... Ngày nay, chuyển đổi số có mối quan hệ hữu cơ với quản lý chất thải (QLCT) và thực hiện kinh tế tuần hoàn (KTTH), cụ thể, QLCT có vai trò quan trọng trong thực hiện KTTH, bởi trong mô hình này, chất thải là trung tâm và tài nguyên; lồng tư duy KTTH vào kinh tế số là tạo ra sự cộng hưởng nhằm thúc đẩy hình thành tư duy, động lực mới. KTTH không phải là QLCT nhưng KTTH xem QLCT là trung tâm ở tất cả các cấp độ, công đoạn khác nhau. Để thực hiện thành công KTTH thì việc xem chất thải là tài nguyên ngay từ giai đoạn thiết kế đến sản xuất, phân phối và tiêu dùng sẽ góp phần tạo ra động lực giá trị cốt lõi trong sản xuất, kinh doanh. Ở cấp độ mô hình sản xuất, kinh doanh đơn lẻ, các DN có thể áp dụng số hóa để thúc đẩy sản xuất sạch hơn, thiết kế và quản lý sản phẩm theo tiêu chí sinh thái; tạo kênh mua sắm xanh từ khu vực tiêu dùng; phát triển hệ thống tái chế, tái sử dụng sản phẩm; hình thành nhà máy xử lý chất thải vận hành hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại và số hóa. Ở cấp độ khu vực, việc thúc đẩy áp dụng công nghệ số để QLCT, phát triển các mô hình khu công nghiệp cộng sinh, khu công nghiệp sinh thái, mở cửa thị trường và thuận lợi hóa thương mại cho các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ liên quan đến KTTH.

    Có thể thấy, chuyển đổi số mang lại rất nhiều lợi ích cho DN, trong đó có tăng hiệu suất kinh doanh và sản xuất, điều này có nghĩa là DN sẽ sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất, cắt giảm chi phí vận hành... Thông qua chuyển đổi số, DN cũng sẽ kiểm soát tốt hơn hiệu quả sử dụng thiết bị, các vật liệu gây ô nhiễm môi trường (khí thải, nước thải, bụi..). Ví dụ đơn giản, dễ nhận thấy nhất từ việc chuyển đổi số là giảm việc in ấn trong quá trình vận hành của DN. Cũng như các ngành công nghiệp khác, in ấn có những chất thải nguy hại tiềm tàng đối với sức khoẻ và môi trường (mực dư thừa chứa kim loại nặng như chì, thuỷ ngân; thải ra các khí của hợp chất hữu cơ dễ bay hơi; phá rừng làm giấy…).

    Bên cạnh đó, chuyển đổi số có tác động lớn đến ngành công nghiệp môi trường, là công cụ quan trọng để BVMT thông qua việc số hóa các hoạt quản lý môi trường như dự báo môi trường, quan trắc; theo dõi, xử lý chất thải công nghiệp… Vì vậy, bức tranh môi trường sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực khi các DN thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi số trong lĩnh vực môi trường.

    PV: Để vừa tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, vừa đảm bảo thực hiện trách nhiệm xã hội với môi trường, theo ông, các DN cần tập trung vào những giải pháp nào?

    Ông Lê Văn Khương: Đối với DN, BVMT cũng chính là bảo vệ nền tảng phát triển bền vững của bản thân DN. Trách nhiệm xã hội của DN với môi trường đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của DN, đòi hỏi DN có ý thức, trách nhiệm với cộng đồng để giảm thiểu tác động lên môi trường. Với ý nghĩa này, chuyển đổi số và thực hiện trách nhiệm xã hội về môi trường là những vấn đề ưu tiên, cần được đặt trong chiến lược phát triển của DN. Chính yêu cầu này đòi hỏi DN cần có giải pháp cụ thể, hướng tới xây dựng một mô hình kinh doanh bền vững.

    Ngoài ra, Luật BVMT năm 2020 cũng đã có một số quy định liên quan đến chuyển đổi số như: Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) môi trường quốc gia; xây dựng CSDL của Bộ, ngành, địa phương liên thông với CSDL môi trường quốc gia; toàn bộ thông tin về hoạt động BVMT của cơ quan quản lý nhà nước và DN phải được cập nhật trên CSDL (Giấy phép môi trường, đăng ký môi trường, quan trắc môi trường, thanh tra, kiểm tra, xử phạt...); quan trắc môi trường tự động, liên tục; phát triển thị trường các bon… Mặt khác, tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) diễn ra vào tháng 12/2021, Việt Nam và gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” đến năm 2050. Do đó, các DN cũng có trách nhiệm đồng hành cùng Chính phủ trong việc triển khai hiệu quả các quy định, cam kết này.

    Đặc biệt, để giải quyết tốt bài toán phát triển kinh tế gắn với BVMT, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, ngay từ chủ trương đầu tư, các DN cần dựa vào kinh nghiệm của thế giới; lựa chọn công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường; xác định rõ trách nhiệm của DN để đánh giá, dự báo, nhận dạng những tác động có thể xảy ra, nhất là vấn đề nước thải, khí thải và chất thải rắn, từ đó xây dựng kế hoạch giám sát các nguồn thải. Hơn nữa, trong quá trình giám sát, cần tính toán giải pháp kỹ thuật phòng ngừa sự cố môi trường, biện pháp xử lý cụ thể đối với các loại chất thải…

    PV: Xin trân trọng cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn!

Gia Linh (Thực hiện)

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 12/2022)

Ý kiến của bạn