Banner trang chủ
Thứ Sáu, ngày 29/03/2024

Bình luận về một số chính sách mới trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020

22/12/2020

     Luật BVMT năm 2020 vừa được Quốc hội thông qua gồm 16 Chương, 171 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022, trong đó đã quy định nhiều chính sách mới, có tính đột phá như phân loại dự án đầu tư theo tiêu chí môi trường; quy định về giấy phép môi trường; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất nhập khẩu đối với việc thu hồi, tái chế sản phẩm, bao bì; chi trả giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) từ hộ gia đình, cá nhân dựa trên khối lượng hoặc thể tích chất thải đã được phân loại; các quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH); áp dụng kỹ thuật hiện có tốt nhất (BAT); phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường; chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên; tổ chức và phát triển thị trường các-bon; bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường; kinh tế tuần hoàn; mua sắm xanh; khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên; tín dụng xanh, trái phiếu xanh; kiểm toán môi trường.

     1. Phân loại dự án đầu tư theo tiêu chí môi trường, đánh giá tác động môi trường (ĐTM), giấy phép môi trường (GPMT) và khả năng chịu tải môi trường

     Phân loại dự án đầu tư theo tiêu chí môi trường: Mặc dù nội dung này đã được áp dụng để làm cơ sở xác định đối tượng phải ĐTM theo pháp luật về BVMT trước đây. Tuy nhiên, đến Luật BVMT năm 2020, thì việc phân loại dự án đầu tư theo tiêu chí môi trường đã được quy định cụ thể một cách khoa học tại Điều 28. Theo đó, dự án được phân loại thành: Dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (nhóm I); Dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường (nhóm II); Dự án đầu tư ít có nguy cơ tác động xấu đến môi trường (nhóm III); Dự án đầu tư không có nguy cơ tác động xấu đến môi trường (nhóm IV). Việc phân loại này dựa vào 3 tiêu chí: Quy mô, công suất, loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; Diện tích sử dụng đất, đất có mặt nước, khu vực biển, quy mô khai thác tài nguyên thiên nhiên; Yếu tố nhạy cảm về môi trường.

     Đối với việc phân loại này, Luật đã đưa ra các quy định ứng xử phù hợp với từng nhóm nhằm kiểm soát một cách hiệu quả đối với từng loại hình, đáp ứng nguyên tắc dự án càng có nguy cơ gây ô nhiễm càng bị kiểm soát chặt chẽ như sau:

     - Đối với dự án đầu tư nhóm I thì Luật có nhiều biện pháp quản lý hơn hơn như (1) đánh giá sơ bộ tác động môi trường (Điều 29) trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng, đề xuất chủ trương đầu tư, đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư; (2) ĐTM (Điều 30) trong quá trình nghiên cứu khả thi; (3)  có GPMT, nếu phát sinh nước thải, bụi, khí thải xả ra môi trường phải được xử lý, hoặc phát sinh chất thải nguy hại phải được quản lý trước khi đi vào vận hành (Điều 39)..

     - Đối với dự án đầu tư nhóm II, thì không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường; chỉ yêu cầu ĐTM đối với một số loại hình dự án; các dự án còn lại nếu phát sinh nước thải, bụi, khí thải xả ra môi trường phải được xử lý, hoặc phát sinh chất thải nguy hại phải được quản lý thì cấp GPMT ngay trong giai đoạn nghiên cứu khả thi dự án..

     - Đối với dự án đầu tư nhóm III, thì không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường; không phải thực hiện ĐTM; có GPMT nếu phát sinh nước thải, bụi, khí thải, do địa phương cấp.

     - Đối với dự án đầu tư nhóm IV thì phải đăng ký môi trường (Điều 49) nếu phát sinh chất thải và UBND cấp xã tiếp nhận đăng ký.

    GPMT được quy định nhằm tích hợp tất cả các loại giấy phép, giấy xác nhận có liên quan đến môi trường hiện hành: xả nước thải; xả khí thải; xử lý chất thải nguy hại; nhập khẩu phế liệu; đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại. Với việc tích hợp này đã giảm phần lớn các loại giấy phép hiện hành, cũng như thủ tục cấp giấy phép giúp giảm chi phí xã hội, chi phí của các nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đồng thời bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về môi trường.

     Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra các tiêu chí môi trường để phân loại dự án đầu tư, từ đó áp dụng những công cụ quản lý về môi trường phù hợp đối với từng loại dự án theo từng giai đoạn triển khai dự án. Đây là cách tiếp cận khoa học, thống nhất và đã được nhiều nước tiên tiến trên thế giới áp dụng hiệu quả.

     Khả năng chịu tải của môi trường: Luật BVMT năm 2020 quy định việc cấp GPMT căn cứ vào phân vùng môi trường, khả năng chịu tải của môi trường (Điều 42). Điểm mấu chốt trong  quy định này được thể hiện tại Khoản 2 Điều 7 đã nêu: “Không phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM hoặc cấp GPMT cho dự án đầu tư mới có hoạt động xả nước thải vào nguồn nước mặt không còn khả năng chịu tải theo công bố của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp chủ dự án có phương án xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường về chất lượng nước mặt trước khi thải vào môi trường tiếp nhận hoặc có phương án tuần hoàn, tái sử dụng để không làm phát sinh thêm nước thải hoặc trường hợp dự án xử lý ô nhiễm, cải tạo, phục hồi, cải thiện chất lượng môi trường khu vực bị ô nhiễm”. Với quy định này, cùng với việc áp dụng một cách nghiêm minh thì khu vực bị ô nhiễm môi trường (ÔNMT) nghiêm trọng hoặc suy thoái môi trường sẽ giảm, theo đó quyền sống trong môi trường trong lành của người dân sẽ được bảo đảm hiệu quả.

     2. Kinh tế tuần hoàn và quản lý chất thải rắn theo hướng áp dụng việc tái chế, tuần hoàn tài nguyên

     Kinh tế tuần hoàn là nội dung hoàn toàn mới, được quy định để theo kịp với xu hướng phát triển hiện nay khi mà tài nguyên, nhiên liệu, nguyên liệu ngày càng khan hiếm và đắt đỏ. Việc chuyển từ nền kinh tế tuyến tính (ở đó tài nguyên, nguyên liệu đầu vào đi qua quá trình sản xuất tạo thành sản phẩm đầu ra đến tiêu dùng và kết thúc ở giai đoạn thải bỏ chủ yếu tại bãi chôn lấp) sang nền kinh tế tuần hoàn mà ở đó “hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường” (Điều 142) cho thấy quy định chú trọng đến việc tiết kiệm nguyên nhiên liệu bằng cách cải tiến thiết kế, áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng nguyên liệu tái chế, do vậy tài nguyên sẽ được tiết kiệm, tuần hoàn.

     Cùng với việc quy định về kinh tế tuần hoàn, Luật BVMT năm 2020 đã có nhiều quy định mới trong quản lý chất thải rắn để tiên phong, từng bước góp phần hình thành mô hình kinh tế tuần hoàn như: Áp dụng đầy đủ cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất đối với việc thu hồi, tái chế sản phẩm, bao bì (EPR) (Điều 54); Chi trả giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH từ hộ gia đình, cá nhân dựa trên lượng chất thải đã được phân loại (Điều 79); Chất thải rắn công nghiệp thông thường được tự tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng (Điều 82), cụ thể như sau:

     Quy định về trách nhiệm tái chế của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu (Điều 54) tuy mang tính nguyên tắc nhưng có đủ cơ sở để nhằm áp dụng đầy đủ cơ chế EPR, theo đó “Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế phải tái chế theo tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc”, được lựa chọn thực hiện tái chế bằng hình thức tự “tổ chức tái chế sản phẩm, bao bì” hoặc “đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam để hỗ trợ tái chế các sản phẩm, bao bì”. Cơ chế EPR được áp dụng rộng rãi ở châu Âu, các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan.

     Áp dụng cơ chế này, Hàn Quốc đã thực hiện hiệu quả việc tiết kiệm tài nguyên, tăng 75% khối lượng tái chế trong hơn 10 năm (năm 2003: 1.047.000 tấn lên 1.837.000 tấn năm 2017), trong đó năm 2017: 92% chất thải nhựa được tái chế (năm 2003: 172.000 tấn lên 883.000 tấn năm 2017). Ở Đài Loan, thì lượng rác thải tính trên đầu người có xu hướng giảm dần (giảm từ 1,15 kg/người năm 1998 xuống 0,87 kg/người năm 2014), nhưng tỷ lệ tái chế lại có xu hướng tăng (tăng từ 3% năm 1998 lên 45% năm 2015).

Con người có quyền được sống trong môi trường trong lành

     Chi trả giá dịch vụ thu gom, xử lý CTRSH dựa trên lượng chất thải đã được phân loại, theo đó, CTRSH phải được phân loại thành: chất thải rắn (CTR) có khả năng tái sử dụng, tái chế; chất thải thực phẩm; CTRSH khác. Chúng phải được chứa đựng trong các bao bì để được thu gom, xử lý. Điểm tập kết, trạm trung chuyển phải có các khu vực khác nhau để lưu giữ các loại CTRSH đã được phân loại, bảo đảm không để lẫn các loại chất thải đã được phân loại với nhau. CTR có khả năng tái sử dụng, tái chế, chất thải nguy hại phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân đã được phân loại theo quy định không phải chi trả giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý. Đối với các loại CTR khác thì phải được chứa đựng trong bao bì do UBND quy định để được thu gom, tái chế. Đơn vị thu gom, vận chuyển CTRSH có quyền từ chối thu gom, vận chuyển CTRSH của hộ gia đình, cá nhân không phân loại và không sử dụng bao bì đúng quy định.

     Như vậy có thể thấy, Luật đã có quy định cụ thể rõ ràng cho phép chính quyền địa phương thu chi phí để chi trả giá xử lý CTRSH thông qua việc bán túi ni lông (có thể hiểu là túi này do chính quyền địa phương độc quyền phát hành trên địa bàn, giá được tính toán phù hợp), người dân sẽ bỏ rác vào đó, túi càng to, giá càng cao. Đơn vị thu gom chỉ thu gom rác thải được đựng trong túi ni lông này. Người dân muốn bỏ ra ít tiền thì phải tìm cách hạn chế rác thải; phân loại rác (loại có khả năng tái chế thì để riêng ra để bán hoặc chuyển giao không mất tiền chi trả cho dịch vụ thu gom), chỉ chứa đựng rác không thể tái chế vào túi ni lông do chính chính quyền địa phương phát hành; sắp xếp rác gọn gàng, giảm thiểu thể tích để chứa trong túi ni lông.

     Chính sách này đã và đang thành công ở rất nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... Ở các nước, ban đầu cũng gặp sự phản đối của người dân và không chịu phân loại rác, không sử dụng túi do chính quyền phát hành, xả rác trộm. Tuy nhiên, sau một thời gian đơn vị thu gom không thu đối với rác không được chứa trong túi theo quy định thì rác thải tại một số nơi bắt đầu gây ÔNMT, buộc cộng đồng lên tiếng và có các biện pháp điều chỉnh hành vi. Song song với việc này thì công tác giám sát, xử lý vi phạm được thực hiện nghiêm, cùng với sự tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng được đẩy mạnh thì sau vài năm, việc phân loại rác tại nguồn được thực hiện như một thói quen của nếp sống văn minh, hiện đại.

     CTR công nghiệp thông thường được tự tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng được quy định đầy đủ mở đường cho việc tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng, sản xuất vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng, sẽ khắc phục về cơ bản các loại chất thải công nghiệp thông thường hiện nay được chất đống, vứt bỏ mà không có cơ chế để tái chế, tái sử dụng….

     Như vậy, các quy định mang tính đột phá nêu trên, nếu được áp dụng một cách bài bản, có hệ thống với sự quyết tâm cao của các cấp chính quyền, đặc biệt là chính quyền địa phương và sự ủng hộ của người dân, doanh nghiệp thì cơ bản sẽ giải quyết sự gia tăng của các bãi chôn lấp CTR như Nam Sơn, Đa Phước hiện nay, đồng thời góp phần hình thành một nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.

     3. Tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy các hoạt động ứng phó với BĐKH, đáp ứng thực thi các cam kết trong CPTPP và EVFTA và các điều ước quốc tế về BĐKH

     Theo Luật BVMT năm 2020, các nội dung thích ứng với BĐKH (Điều 90) được xác định đầy đủ gồm đánh giá tác động, tính dễ bị tổn thương, rủi ro, tổn thất và thiệt hại; triển khai các hoạt động thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ rủi ro thiên tai, các mô hình thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng và dựa vào hệ sinh thái; ứng phó với nước biển dâng và ngập lụt đô thị; xây dựng, triển khai hệ thống giám sát và đánh giá các hoạt động thích ứng với BĐKH, từ đó có thể tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống tự nhiên và xã hội, giảm thiểu tác động của BĐKH và tận dụng những cơ hội do BĐKH mang lại. Các nội dung về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (Điều 91) như thực hiện lộ trình, phương thức giảm nhẹ khí nhà kính theo các cam kết quốc tế; kiểm kê khí nhà kính, phát triển thị trường các-bon trong nước.

     Quy định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon được quy định tại Điều 139, đây là công cụ thị trường mới, một mặt có thể giúp chúng ta thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, mặt khác giúp các doanh nghiệp trong nước phát triển và ứng dụng công nghệ ít phát thải các-bon. Điều quan trọng nhất là làm cơ sở để phát triển thị trường các-bon trong nước, gắn kết với thị trường các-bon quốc tế nhằm phát triển hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

     Các quy định về bảo vệ tầng ô-zôn tại Điều 92 sẽ làm cơ sở để quản lý sản xuất, xuất nhập khẩu, tiêu thụ và loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, chất gây hiệu ứng nhà kính kiểm soát trong khuôn khổ điều ước quốc tế về bảo vệ tầng ô-zôn. Ngoài ra, các quy định khác nhằm mở rộng phạm vi thực hiện ứng phó với BĐKH như lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy hoạch (Điều 96); xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về BĐKH (Điều 97), thực hiện cam kết quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ô-zôn (Điều 98).

     Như vậy, có thể thấy Luật BVMT 2020 đã có các quy định căn bản nhằm quản lý các hoạt động ứng phó với BĐKH nhằm thích ứng và giảm thiểu tác động của BĐKH, đồng thời tận dụng được cơ hội phát triển do thị trường các-bon đem lại.

     4. Quy định bảo đảm xác định rõ cơ chế, trách nhiệm trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và khắc phục môi trường sau sự cố môi trường

     Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường được quy định từ Điều 121 đến Điều 129 đã quy định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phòng ngừa, chuẩn bị ứng phó, ứng phó sự cố môi trường, phục hồi môi trường sau sự cố trên cơ sở áp dụng linh hoạt cơ chế ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn. Các nội dung này tiếp tục được quy định một cách tập trung và trực tiếp để phòng ngừa sự cố môi trường của các cơ sở. Các quy định làm cơ sở để thực hiện việc lập kế hoạch, diễn tập và xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố môi trường (kế hoạch của cơ sở được lồng ghép, tích hợp và phê duyệt cùng kế hoạch ứng phó sự cố khác để không làm phát sinh thủ tục hành chính).

     Đối với việc ứng phó sự cố môi trường được thực hiện theo 4 cấp sự cố, căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng tại thời điểm phát hiện sự cố để xác định cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo ứng phó: (1) sự cố môi trường cấp cơ sở (do cơ sở ứng phó); (2) sự cố môi trường cấp huyện; (3) sự cố môi trường cấp tỉnh; (4) sự cố môi trường cấp quốc gia. Luật cũng phân định rõ người chỉ đạo ứng phó sự cố môi trường là Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn. Người lãnh đạo ứng phó sự cố môi trường thành lập sở chỉ huy ứng phó sự cố môi trường và tổ công tác xác định nguyên nhân sự cố môi trường; chỉ định người chỉ huy và người phát ngôn về sự cố môi trường; huy động lực lượng, thiết bị, phương tiện ứng phó sự cố. Quy định này nhằm phân định rõ trong chỉ đạo ứng phó với chỉ huy ứng phó tại hiện trường, cũng như phát ngôn về sự cố môi trường để bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất.

     Việc phục hồi môi trường sau sự cố do tổ chức, cá nhân thực hiện theo Kế hoạch phục hồi môi trường UBND cấp huyện, cấp tỉnh và Bộ TN&MT phê duyệt tương ứng với từng cấp sự cố (riêng sự cố cấp cơ sở thì do cơ sở tự thực hiện trong phạm vi cơ sở). Trong trường hợp chưa xác định được tổ chức, cá nhân gây ra sự cố thì cơ quan phê duyệt kế hoạch tổ chức thực hiện kế hoạch phục hồi môi trường sau sự cố. Việc phục hồi môi trường sau sự cố môi trường phải bảo đảm đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường về chất lượng môi trường xung quanh.

     Tổ chức, cá nhân gây ra sự cố môi trường có trách nhiệm chi trả kịp thời, toàn bộ các chi phí tổ chức ứng phó sự cố môi trường, phục hồi môi trường; trường hợp nhà nước tổ chức ứng phó sự cố môi trường và phục hồi môi trường thì tổ chức, cá nhân gây ra sự cố môi trường có trách nhiệm bồi hoàn các chi phí liên quan cho nhà nước. Sự cố môi trường không xác định được nguyên nhân hoặc không xác định được tổ chức, cá nhân gây ra sự cố môi trường thì kinh phí tổ chức ứng phó sự cố môi trường và phục hồi môi trường do nhà nước chi trả.

     Tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có khả năng bị ảnh hưởng từ sự cố môi trường phải được thông báo về các nguy cơ sự cố và các biện pháp ứng phó sự cố môi trường của các cơ sở xung quanh; được thông tin, tham gia và giám sát các hoạt động ứng phó sự cố môi trường. Thời điểm bắt đầu và kết thúc giai đoạn tổ chức ứng phó sự cố môi trường và giai đoạn phục hồi môi trường phải được cơ quan, người có thẩm quyền công bố, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư được biết, tham gia và giám sát.

     Các quy định này đã đưa ra được cơ chế xác định rõ trách nhiệm ứng phó sự cố môi trường của cơ sở, của cơ quan nhà nước đồng thời có được các cơ chế khả thi nhằm ứng phó sự cố môi trường một cách hiệu quả, kịp thời, áp dụng triệt để nguyên tắc người gây ô nhiễm phải chi trả nhưng vẫn thể hiện được vai trò của nhà nước trong việc ứng phó sự cố môi trường.

     5. Áp dụng BAT, kiểm toán môi trường là hai công cụ hữu hiệu trong kiểm soát môi trường cho cả nhà quản lý và nhà đầu tư

     Áp dụng BAT (Điều 105) là quy định bắt kịp với phương pháp quản lý dựa vào công nghệ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, xử lý chất thải tiết kiệm năng lượng, tăng tính chủ động trong phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm dựa vào việc áp dụng kỹ thuật hiên có tốt nhất, phù hợp với điều kiện chung về kinh tế, cũng như năng lực đầu tư, nghĩa là kiểm soát chủ động theo thời gian toàn bộ quá trình sản xuất, xử lý môi trường của cơ sở.

     Kiểm toán môi trường (Điều 74) là công cụ giúp nhà đầu tư nhận biết được sự thay đổi của các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và xử lý chất thải, nghĩa là đánh giá chủ động định kỳ. Từ đó, cả nhà quản lý và đầu tư sẽ chủ động hơn trong việc kiểm soát vấn đề môi trường tại cơ sở, đồng thời cũng có công cụ để xác định mức độ gây ô nhiễm của cơ sở sản xuất dựa vào kết quả kiểm toán môi trường, theo đó sẽ dễ dàng có biện pháp can thiệp, xử lý, hoặc đưa ra chứng cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi ÔNMT gây ra và chủ động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục môi trường do sự cố môi trường.

     Mặc dù các quy định áp dụng hai công cụ nêu trên còn phụ thuộc vào lộ trình áp dụng (đối với BAT) và khuyến khích cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tự thực hiện kiểm toán môi trường nhưng quy định này sẽ là cơ sở quan trọng để thực hiện kiểm soát môi trường một cách chủ động, hiệu quả.

     6. Các công cụ kinh tế, tài chính và việc hình thành các nguồn lực BVMT hiệu quả, thiết thực theo cơ chế mới

     Chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên (Điều 138) là việc tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên trả tiền cho tổ chức, cá nhân cung ứng giá trị môi trường, cảnh quan do hệ sinh thái tự nhiên tạo ra để bảo vệ, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên.

     Mua sắm xanh (Điều 146) đã quy định bắt kịp xu hướng của thế giới trong mua sắm, tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường nhằm giảm thiểu nhiều nhất tác động bất lợi tới sức khỏe và môi trường.

     Khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên (Điều 147) là cơ sở quan trọng để khai thác bền vững và bảo vệ, bảo tồn hiệu quả đất, nước, rừng, nguồn lợi thủy sản, khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, các nguồn năng lượng tự nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên.

     Tín dụng xanh (Điều 149), Trái phiếu xanh (Điều 150) không định nghĩa trong Luật, nhưng thông qua việc cấp tín dụng xanh có thể thấy tín dụng xanh, trái phiếu xanh là khoản vay cho các dự án có liên quan đến BVMT, thích ứng BĐKH, sử dụng tài nguyên hiệu quả, tiết kiệm năng lượng.

     Với các quy định mới này sẽ mở ra cơ chế hình thành và tiếp cận nguồn vốn đề đầu tư thực hiện các dự án xanh; các hoạt động, dự án duy trì, bảo vệ, bảo tồn, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên bước đầu hỗ trợ thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế cácbon thấp, kinh tế xanh đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững, cân bằng nhu cầu và lợi ích phát triển con người với yêu cầu bảo vệ thiên nhiên; đưa con người trở lại, sống hài hòa với thiên nhiên.

     7. Cơ chế bảo đảm sự tuân thủ các quy định của pháp luật về BVMT, bảo đảm tính khả thi, nghiêm minh và đáp ứng yêu cầu của các FTA thế hệ mới nói chung cũng như CPTPP, EVFTA nói riêng

     Sự tuân thủ nghiêm minh pháp luật về BVMT luôn được đặt ra, trong đó có nhiều quy định về BVMT được đánh giá cao, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên việc tuân thủ các quy định về BVMT ở nước ta còn thấp. Trước thực trạng môi trường ngày càng ô nhiễm, hệ sinh thái suy giảm, BĐKH diễn biến phức tạp; nhưng phải đáp ứng yêu cầu hiến định về quyền được sống trong môi trường trong lành của Nhân dân; đồng thời phải đáp ứng yêu cầu tuân thủ pháp luật về môi trường ngày một cao của các Hiệp định FTA (như CPTPP và EVFTA), thì đòi hỏi việc thực thi nghiêm minh pháp luật về BVMT được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, xuyên suốt Luật BVMT là các quy định bảo đảm tính khả thi cũng như cơ chế để thực thi một cách hiệu quả, một vài chế định quan trọng cụ thể như:

     Về chức năng và tổ chức quản lý nhà nước về môi trường: Có thể thấy Luật đã giảm mạnh sự phân mảnh trong quản lý môi trường, đặc biệt là trong quản lý CTR, theo đó Bộ TN&MT là cơ quan chủ trì quản lý. Loại bỏ sự phân mảnh trong cấp GPMT, theo đó Bộ TN&MT thống nhất cấp GPMT, trong đó bao gồm cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước và xả nước thải vào công trình thủy lợi. Đồng thời, hệ thống cơ quan nhà nước về BVMT sẽ tiếp được kiện toàn theo hướng tinh gọn. Đây chính là cơ sở quan trọng nhằm tổ chức thực thi pháp luật BVMT một cách hiệu quả, đồng bộ và nghiêm minh.

     Về hoạt động thanh tra, giám sát môi trường: Trong những năm gần đây, hoạt động thanh tra đã được thực hiện tập trung có trọng điểm, thì với quy định của Luật, hoạt động thanh tra sẽ tiếp tục thực hiện một cách chặt chẽ tăng cường giám sát theo các nhóm dự án hoặc cơ sở, sản xuất, kinh doanh theo phân loại dự án như đã nêu trên.

     Quy định về phân loại dự án theo tiêu chí môi trường và các quy định ứng dụng việc phân loại này chính là biện pháp nhằm cá biệt hóa các dự án, cơ sở có nguy cơ gây ÔNMT theo từng mức độ để có các biện pháp ứng xử phù hợp, hiệu quả tránh đổ đồng làm triệt tiêu nỗ lực phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cũng như BVMT của nhà đầu tư, từ đó nâng cao được tính khả thi của các quy định.

     Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động BVMT là quy định đột phá lớn nhất trong Luật thực hiện triệt để nguyên tắc BVMT là trách nhiệm và quyền của mỗi cá nhân, tổ chức, cộng đồng, cơ quan nhà nước. Nhà nước chỉ đóng vai trò là cơ quan ban hành và tổ chức thực thi chính sách, pháp luật; là trọng tài là cơ quan xử lý vi phạm. Việc tự quản về BVMT được trao cho cộng đồng dân cư, như giám sát việc phân loại, xả rác thải sinh hoạt; giám sát việc BVMT của các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và Bộ có cơ chế để tiếp nhận, xử lý, phản hồi các phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân, cộng đồng về các hành vi gây ÔNMT nói riêng và vi phạm pháp luật về BVMT. Các cơ chế xã hội hóa quan trọng nhất là cơ chế liên quan đến tài chính, kinh tế và các công cụ mới trong BVMT bao gồm: Cơ chế chi trả giá dịch vụ thu gom, xử lý CTRSH dựa trên lượng chất thải; Cơ chế trách nhiệm mở của nhà sản xuất, nhập khẩu đối với sản phẩm, bao bì sau sử dụng (cơ chế EPR); Cơ chế ký quỹ BVMT; Cơ chế chi trả ứng phó sự cố môi trường, phục hồi môi trường sau sự cố; Cơ chế bồi thường thiệt hại về môi trường; Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường; Chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên… là những cơ chế trực tiếp tác động vào túi tiền của những người khai thác, sử dụng môi trường, gây ÔNMT cũng đồng thời là quy định nhằm khuyến khích đầu tư cải tạo, phục hồi môi trường, bảo tồn thiên nhiên ….sẽ là cơ chế quan trọng để thay đổi căn bản nhận thức, hành vi và cách ứng xử với môi trường của mỗi cá nhân, tổ chức đồng thời cũng thúc đẩy thực hiện BVMT, có nguồn lực để phòng ngừa, ứng phó, khắc phục, cải tạo, phục hồi môi trường hiệu quả nhất.

     Như vậy có thể thấy, Luật BVMT năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung những vấn đề căn bản, thực chất và thiết thực nhất, đáp ứng cơ bản yêu cầu và kỳ vọng về BVMT, khai thác và bảo tồn thiên nhiên một cách bền vững trong thời gian tới. Đồng thời bắt kịp với những xu hướng BVMT, phát triển bền vững của các nước trên thế giới và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, những quy định mới này không phải một sớm, một chiều có thể đi vào cuộc sống mà cần sự nỗ lực thực thi liên tục trong nhiều năm mới thấy được kết quả như cơ chế chi trả giá dịch vụ thu gom, xử lý CTRSH dựa trên lượng chất thải hay cơ chế EPR. Trước sự phát triển mạnh của nền kinh tế, sự gia tăng dân số và phát triển đô thị thì áp lực lên môi trường, tự nhiên ngày càng tăng. Hơn bao giờ hết, việc áp dụng những quy định BVMT mới này càng cần thiết và cần sự ủng hộ không giới hạn của từng người dân, của cộng đồng; sự quyết tâm không gián đoạn của chính quyền, mà vai trò then chốt là người đứng đầu để từng bước cải thiện môi trường sống, đem lại sự phát triển cân bằng và hài hòa giữa con người và thiên nhiên.

Nguyễn Thi

Bộ Tài nguyên và Môi trường

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 11/2020)

 

 

                           

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                     

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ý kiến của bạn