29/06/2018
Nguyễn Thị Thanh Phượng, Trần Ngọc Hân, Nguyễn Xuân Lan
Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia TP.HCM
TÓM TẮT
Việc khử trùng nước bằng chlorine nhằm bảo vệ sức khỏe con người và an toàn sinh thái, yêu cầu chi phí thấp, dễ sử dụng và giúp bất hoạt nhanh các vi khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên, quá trình khử trùng này có thể dẫn đến sự hình thành các sản phẩm phụ (DBPs). Trong đó, trihalomethane (THMs) được chứng minh có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Bài báo tổng hợp những nghiên cứu về sự hiện diện THMs trong nước cấp, cơ chế hình thành và phương pháp xử lý THMs trong môi trường nước.
Từ khóa: Trihalomethane (THMs), xử lý nước, khử trùng nước, chlorine.
Khử trùng là một quá trình quan trọng trong việc loại bỏ các vi sinh vật gây bệnh trong nguồn nước nhằm đảm bảo an toàn trong nước uống và sinh hoạt. Trong đó, công nghệ khử trùng bằng chlorine thường được áp dụng rộng rãi nhất do khả năng ôxy hóa cao và ít tốn kém nhất. Các chất được áp dụng trong công nghệ khử trùng hiện nay tại Việt Nam gồm: Chlorine hay các hợp chất có chứa chlorine hoạt tính (hypochlorite, chloramine…), chlorinerua vôi, nước javel (sodium hypochlorite) hoặc chlorine dạng rắn cho vào nước.
Tuy nhiên, kể từ những năm 1970, người ta đã nhận ra rằng, khử trùng có thể gây ra các sản phẩm phụ (Disinfection By-products - DBPs) gây hại và dẫn đến các mối lo ngại về sức khoẻ. Trong số các DBPs nêu trên, nhóm các hợp chất THMs được phát hiện đầu tiên và 4 THMs được quan tâm nhiều nhất, đó là chloroform (CHCl3), bromodichloromethane (BDCM - CHBrCl2), dibromochloromethane (DBCM - CHBr2Cl) và bromoform (CHBr3). Chloroform thường chiếm tỷ trọng lớn nhất (90% THMs) và nồng độ của những chất khác thường giảm theo thứ tự CHCl3> CHBrCl2> CHBr2Cl> CHBr3. Sự gia tăng nguy cơ thai chậm tăng trưởng trong tử cung (IUGR) có liên quan đến sự phơi nhiễm chloroform có nồng độ lớn hơn 10 μg/L. Phụ nữ mang thai bị phơi nhiễm THMs với nồng độ trên 100 μg/L sinh em bé bị thiếu cân và trẻ sơ sinh nhỏ hơn so với tuổi thai, ngoài ra còn có sự gia tăng các dị tật thần kinh trung ương, khuyết tật ống thần kinh, khuyết tật hở miệng, dị tật tim và các khiếm khuyết tim nặng khi người mẹ bị phơi nhiễm với mức THMs trên 80 μg/L. Nội dung bài báo này tập trung vào thảo luận vềsự hiện diện THMs trong nước cấp cũng như các phương pháp loại bỏ THMs và các tiền chất hình thành nên THMs trong môi trường nước.
2. Sự hiện diện của hợp chất THMs trong nước
2.1. Cơ chế hình thành THMs trong nước
Hầu hết NOMs (bao gồm hợp chất humic và fulvic) có khả năng phản ứng với chlorine sử dụng cho quá trình khử trùng để tạo thành các dạng haloforms và các hợp chất hữu cơ halogen hóa khác. Các tiền chất của THMs được tạo ra khi brom và chất hữu cơ hòa tan đều có mặt trong nước, từ đó tạo nên khả năng hình thành THMs (Trihalomethanes formation potential - THMFP). THMFP được định nghĩa là sự chênh lệch giữa nồng độ THMs tổng số đo được sau quá trình khử trùng bằng chlorine (TTHMi) và nồng độ THMs tổng thể đo được trong các khoảng thời gian đều nhau trong suốt quá trình xử lý nước (TTHMf):THMFP = TTHMf – TTHMi.
Sự hình thành các THMs có thể được minh họa bằng phản ứng giữa propanone và chlorine. Trong nước có chứa chlorine, propanone có thể bị ôxy hoá dễ dàng trở thành trichloropropanone. Sau đó, trichloropropanone trải qua phản ứng thủy phân để hình thành nên chloroform, nhất là trong môi trường có pH cao [(1), (2)]. Nếu có brom, propanone chứa brom có thể được hình thành. Các propanone này sau đó sẽ tạo ra các THMs chứa brom.
CH3COCH3 + HOCl →CH3COCCl3
CH3COCCl3 +H2O →CH3COOH + CHCl3
Ngoài ra, THMs còn được hình thành từ phản ứng giữa các ankan với nhóm halogen. Phản ứng này chính là phản ứng thế của ankan, là phản ứng đặc trưng của ankan vì phân tử ankan chỉ chứa liên kết đơn [(3), (4)]. Về nguyên tắc, các nguyên tử H trong phân tử ankan có thể bị thay thế lần lượt từ 1 đến hết. Khả năng phản ứng giảm theo thứ tự F2> Cl2> Br2> I2, nhưng phản ứng với flo thường ít gặp vì phản ứng quá mạnh và gây phản ứng hủy như phương trình (4). Còn iod lại phản ứng quá yếu nên hầu như cũng không gặp.
CnH2n+2 + xX2 → CnH2n+2-xXx + xHX
CnH2n+2 + (n+1)F2 → nC + (2n+2)HF
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành THMs bao gồm liều lượng chlorine được sử dụng để khử trùng, thời gian lưu, nhiệt độ nước, pH ban đầu, hàm lượng carbon hữu cơ (Total Organic Carbon - TOC) và hàm lượng ion bromua có mặt trong nước. Các nghiên cứu cho thấy, khi gia tăng giá trị các yếu tố trên, lượng THMs trong nước cũng tăng theo. TOC là một trong những chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất để định lượng lượng NOMs trong nước. Trong nghiên cứu của Ramavandi và cộng sự (2015), mức độ tác động của hàm lượng TOC (1 - 5 mg/L) lên sự hình thành THMFP trong nước sông Dez, Iran, đã được khảo sát. Theo đó, với liều lượng chlorine ban đầu được cố định ở 23 mg/L, THMFP cũng tăng khi nồng độ TOC tăng lên đến 4 mg/l, trong khi mức tăng TOC khác không làm thay đổi đáng kể giá trị THMFP. Bên cạnh đó, thí nghiệm trên ba nguồn nước khác nhau và kiểm tra tác động của nồng độ ion bromua trên sự hình thành THMs. Kết quả cho thấy, khi nồng độ bromua tăng, nồng độ THMs cũng tăng theo.
2.2. Sự hiện diện của THMs trong nước cấp
Nghiên cứu của Gan và cộng sự (2013) kiểm tra tổng số 155 mẫu nước cấp sau xử lý tại 3 TP Quảng Châu, Phật Sơn và Châu Hải (Trung Quốc). Nồng độ trung bình của THMs là 17,7 μg/L (với khoảng tứ phân vị là 7,9-24,0 μg/L). Chloroform là loại THMs chiếm ưu thế trong nước tại các nhà máy xử lý nước ở TP. Quảng Châu và Phật Sơn, trong khi đó THMs chứa brom chiếm ưu thế trong nước ở nhà máy nước thuộc TP.Châu Hải. Đồng thời, lượng CHCl2Br được xác định góp phần gia tăng nguy cơ ung thư do tiếp xúc qua đường tiêu hoá và chloroform góp phần gây ung thư qua đường hô hấp.
Trong bài tổng hợp của Kim và cộng sự (2015), các hợp chất THMs đã được phát hiện sau quá trình khử trùng tại nhiều nhà máy khử mặn nước biển trên thế giới như ở Ả Rập Saudi, Mỹ, Nhật Bản và Kuwait. Ở Ả Rập Saudi, THMs trong nước uống dao động 3,1 - 12,8 mg/L với nồng độ bromoform> CDBM > DCBM >chloroform. Bromoform chiếm 61% trong tổng số THMs tại 13 điểm phân phối nước.
Nghiên cứu của Nguyễn Lý Sỹ Phú và cộng sự (2016) tiến hành khảo sát THMs trong nước cấp tại 6 quận thuộc TP. Hồ Chí Minh và nước hồ bơi tại quận Tân Bình. Kết quả cho thấy, nồng độ trung bình của THMs trong mẫu nước cấp là 31,40 ± 29,23µg/L (20 - 110 µg/L), trong đó, chloroform chiếm phần lớn dư lượng THMs trong nước cấp (28,19 ±25,31 µg/L), còn trong nước hồ bơi có nồng độ THMs cao, giá trị trung bình đạt 109,78 ± 15,21 µg/L (90 - 140 µg/L). Nghiên cứu còn cho thấy, nồng độ THMs trong nước tại tất cả các vi ̣trí khảo sát đều không vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống (QCVN 01:2009/BYT), tuy nhiên, có một vài vị trí dư lượng chloroform khảo sát cao hơn tiêu chuẩn cho phép của US.EPA(80 μg/L).
Theo phân tích của phòng thí nghiệm Phân tích và Kỹ thuật Công nghệ, Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, các hợp chất THMs cũng đã được phát hiện trong mẫu nước sau xử lý của các nhà máy nước Sơn Đông, Tiên Thủy và Ba Tri ở tỉnh Bến Tre. Trong đó, nồng độ DCBM chiếm phần lớn trong số các hợp chất này với giá trị là 18,63 µg/L, 63,32 µg/L và 95,02 µg/L lần lượt tại 3 nhà máy nêu trên; tức hàm lượng DCBM ở nhà máy Tiên Thủy và Ba Tri vượt quy chuẩn QCVN 01:2009/BYT (60 µg/L). Nồng độ chloroform có giá trị thấp hơn, lần lượt là 5,46 µg/L, 21,19 µg/L và 8,55 µg/L, trong khi bromoform không được phát hiện trong mẫu nước của nhà máy Tiên Thủy và Ba Tri.
3. Phương pháp giảm thiểu THMs trong nước cấp
Về nguyên tắc, có 3 cách cơ bản để kiểm soát THMs trong hệ thống xử lý nước cấp: Giảm sự hình thành THMs ban đầu bằng cách giảm nồng độ tiền chất hữu cơ trước điểm khử trùng; hạn chế sự hình thành THMs bằng cách giảm liều khử trùng, thay đổi loại hóa chất khử trùng hoặc tối ưu hóa môi trường khử trùng; loại bỏ các THMs sau khi chúng đã hình thành.
3.1. Phương pháp hấp phụ
Hình 1. Hiệu quả hấp phụ THMs bằng GAC kết hợp quy trình xử lý truyền thống
Ống nano carbon (carbon nanotubes - CNTs) đã được chứng minh là có các ứng dụng tiềm năng lớn trong việc bảo vệ môi trường. Các lỗ hổng bên trong CNTs có kích thước 1 - 4 nm, chiếm khoảng 50% tổng lượng lỗ trong khicác lỗ 20 - 40 nm chiếm khoảng 20%. Mặc dù diện tích bề mặt của CNTs tinh khiết (295m2/g) thấp hơn nhiều so với PAC (900m2/g), khả năng hấp phụ chloroform bởi CNTs (2,72mg/g) gấp đôi so với PAC (1,32mg/g). Điều này có thể do các nhóm chức năng trên bề mặt CNTs khiến CNTs trở nên ưa nước hơn và phù hợp với sự hấp phụ các THMs có phân tử khối thấp và tương đối phân cực, từ đó nâng cao hiệu quả xử lý THMs trong nước cấp sau khi xử lý chlorine. Quá trình hấp phụ là quá trình xảy ra khi một chất khí hay lỏng bị hút trên bề mặt một chất rắn xốp, hoặc là sự gia tăng nồng độ của chất này trên bề mặt chất khác. Yang và cộng sự (2010) đã thử nghiệm xử lý mẫu nước thô tại hồ Tai, thuộc quần đảo Kinmen, Đài Loan, bằng quy trình xử lý nước truyền thống, bao gồm keo tụ tạo bông, tuyển nổi, lắng và lọc qua cát sỏi, kết hợp với mô hình than hoạt tính dạng hạt (Granular Activated Carbon - GAC) nhằm giảm thiểu tiền chất và THMFP trong nước cấp. Kết quả cho thấy, quy trình xử lý truyền thống chỉ loại bỏ được 33,9% TOC và 18,3% THMFP, nhưng khi kết hợp với GAC thì hiệu suất loại bỏ TOC và THMFP lần lượt tăng thêm 10% và 13,5%. Tuy nhiên, nghiên cứu còn chỉ ra rằng, khả năng loại bỏ tiềm năng hình thành DBCM (CHClBr2FP) của mô hình GAC rất thấp. Mô hình GAC đã hấp phụ một lượng DOC, từ đó làm tăng tỉ lệ Br-/DOC trong nước và thúc đẩy sự hình thành THMs. GAC còn có khả năng loại bỏ các tiền chất của THMs, nhưng hiệu quả xử lý giảm dần theo thời gian do sự bão hòa của các vị trí hấp phụ trong GAC. Hiện tượng này được báo cáo bởi Gibert và cộng sự (2013), hiệu suất loại bỏ TOC đã giảm từ giá trị ban đầu là 65% còn lại 40% vào cuối thời gian nghiên cứu.
3.2. Phương pháp keo tụ, tạo bông
Hình 2. Hiệu quả giảm thiểu khả năng hình thành THMs bằng phương pháp keo tụ tạo bông
Theo ghi nhận của Yuefeng (2004), nồng độ của THMFP là 120 µg/L trong nước thô và giảm còn lại 67 µg/L sau khi keo tụ. Trước khi keo tụ, chloroform chiếm 55% (theo trọng lượng) của 4 THMs. Sau khi keo tụ, nó chỉ còn chiếm 37% (tính theo trọng lượng) của 4 THMs. Tuy nhiên, DCBM và bromoform lần lượt tăng từ 14 µg/L và 0,7 µg/L đến 16 µg/L và 1,6 µg/L tương ứng. Khoảng 47% TOC trong nước thô từ hồ Roine, Tampere (Phần Lan) đã được loại bỏ bằng cách sử dụng phương pháp keo tụ bằng phèn nhôm. Theo một nghiên cứu khác về liều lượng keo tụ, khi liều lượng Al2(SO4)3 sử dụng tăng lên, hiệu suất loại bỏ DOC cũng tăng lên, để loại bỏ 40% DOC thì cần dùng 28,7 mg/L Al2(SO4)3. Cơ chế của phương pháp keo tụ tạo bông là làm mất ổn định các hạt lơ lửng bằng cách trung hoà điện tích âm và kết hợp các hạt không ổn định thành các chất kết dính, các chất này có thể được loại bỏ bằng lắng cặn hoặc lọc. NOMs có thể bị kết hợp với chất keo tụ như các ion nhôm hoặc sắt để tạo thành phức chất và kết tủa, tách ra khỏi nước, đặc biệt ở pH thấp. Ở liều lượng cao, kết tủa hydroxyl kim loại có thể hấp phụ NOMs. Do đó, một lượngNOMs đáng kể có thể được loại bỏ bằng quá trình keo tụ, tạo bông. Chính vì thế, bằng cách loại bỏ NOMs, áp dụng phương pháp keo tụ tạo bông trước khi tiến hành khử trùng sẽ góp phần làm giảm đáng kể nhu cầu chlorine và tiềm năng hình thành DBPs.
3.3. Phương pháp thủy phân
Thủy phân ở nhiệt độ cao có thể làm giảm THMs trong nước uống. Hiện nay, nước nóng đun sôi cho đồ uống nóng là phổ biến trên khắp thế giới và đun sôi có thể có tác động tốt đến nồng độ DBPs. Thông thường, khi thời gian làm nóng nước là 5 phút thì nồng độ THMs sẽ giảm. Nước máy thường bao gồm các tiền chất DBPs, DBPs và dư lượng chất khử trùng. Nếu nước nóng đun sôi được giữ trong bình chứa kín trong một thời gian đủ dài, nồng độ THMs ban đầu sẽ tăng và sau đó giảm. Khi nước đun đến 90°C trở lên, hằng số thủy phân THMs bậc nhấtđạt 10-2 - 10-1 l/h. Tất cả 4 THMs được khảo sát đã bị thủy phân một lượng đáng kể trong nước với khoảng pH ban đầu 6,1 - 8,2 ở nhiệt độ từ 650C - 950C.
3.4. Phương pháp lọc sinh học
Quá trình lọc sinh học sử dụng để hỗ trợ số lượng vi khuẩn cần thiết để phân hủy các chất gây ô nhiễm. Các giá thể lọc phải cung cấp một diện tích bề mặt lớn và phải có bề mặt thô mà vi khuẩn có thể dễ dàng phát triển, như than hoạt tính, sỏi và các giá thể bằng nhựa, đá.
Hình 3. Độ giảm TOC (a) và THMFP (b) sau khi xử lý bằng MBR
Bên cạnh đó, theo báo cáo của Pramanik và cộng sự (2015), việc sử dụng lọc sinh học hiếu khí (biological aerated filter - BAF) và than hoạt tính sinh học (biological activated carbon - BAC) đạt được tỷ lệ loại bỏ DOC lần lượt là 51% và 56%. Sự kết hợp của than hoạt tính với chức năng của vi sinh vật đóng góp hiệu quả vào bộ lọc BAC và BAF tạo ra sự loại bỏ DOC lớn nhất. Bằng cách sử dụng bể lọc sinh học (membrane bioreactor - MBR), việc loại bỏ 60% TOC đã dẫn đến sựcắt giảm 75% THMFP. Với phương MBR, THMFP giảm đáng kể từ 239,5±43,8 mg/L xuống còn 60,4±23,1 mg/L. Nhu cầu sử dụng chlorine cho quá trình khử trùng giảm từ 22,3 ±5,1 mg/L xuống còn 0,5± 0,1 mg/L. Phân tích phân bố kích thước phân tử và đặc tính kỵ nước của dòng nước thải sau MBR gợi ý rằng MBR có cơ chế lọc cải tiến nhờ lớp bùn trên bề mặt màng có thể có chức năng như là một rào cản bổ sung cho các tiền chất THMs điển hình, chẳng hạn như các phân tử hữu cơ lớn và các hợp chất kỵ nước.
3.5. Phương pháp lọc qua màng
Quá trình lọc qua màng có hiệu quả xử lý các tiền chất THMs tốt hơn so với các quá trình xử lý khác và được xem là phương pháp tốt nhất để loại bỏ các tiền chất THMs nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn nước uống. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất trong việc sử dụng màng lọc là chi phí vận hành, chủ yếu do thay thế màng do nghẹt màng, lượng điện năng tiêu thụ và khả năng mở rộng hoạt động. Trong nghiên cứu của Kim và cộng sự (2005), hệ thống màng lọc UF/NF được áp dụng để xử lý THMFP trong mẫu nước sông Hàn, Hàn Quốc, và đạt được hiệu suất 85,04%, trong đó, 46,68% THMFP đã được loại bỏ sau màng lọc UF. Trong khi đó, khi ứng dụng quy trình xử lý truyền thống bao gồm keo tụ tạo bông, lắng, lọc cát (Hình 4) kết hợp với GAC thì chỉ loại bỏ được 67,59% tổng THMFP, còn khi kết hợp với màng NF thì đạt được hiệu suất 83,85% loại bỏ THMFP. Theo Bodzek và cộng sự (2002), việc sử dụng màng UF cho thấy hiệu quả loại bỏ chloroformhơn rất nhiều so với màng lọc NF và màng thẩm thấu ngược (reverse osmosis - RO), tuy nhiên, lí do cho ưu điểm này của màng UF lại chưa được xác định cụ thể, có thể do kích thước hay vật liệu của màng lọc.
3.6. Kết hợp nhiều phương pháp
Hình 4. Quy trình xử lý THMFP trong nghiên cứu
Tia UV không tạo ra phản ứng với chlorinetrong quá trình khử trùng nhưng lại ít có tác động đến thành phần hữu cơ trong nước. Theo nghiên cứu của Lamsal và cộng sự (2011), kết quả của quá trình xử lý THMFP bằng tia UV chỉ đạt đượchiệu suất 15%. Tuy nhiên, khi kết hợp với H2O2, THMFP giảm 77% so với lượng ban đầu. Ngoài ra, thí nghiệm xử lý THMFP sử dụng kết hợp H2O2 và O3 cũng đạt được 70% hiệu suất.Trong một nghiên cứu khác của Rudra và cộng sự (2003), việc kết hợp xử lý 90 phút bằng tia UV và 0,1% H2O2 cho hiệu suất xử lý DCBM, DBCM và bromoform đạt 100% và chloroform đạt 92% với nồng độ mỗi chất ban đầu là 200 μg/L. Việc ứng dụng tác nhân ôxy hóa mạnh, điển hình là O3 và tia UV (ultraviolet) và các quá trình xử lý nêu trên cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu sự hình thành THMFP và TOC trong nước thô và từ đó loại bỏ THMs. Trong quá trình xử lý nước, O3 không dẫn đến sự hình thành các hợp chất halogen hóa như THMs, nhưng nếu THMs được hình thành, chúng sẽ bị ôxy hóa bởi O3. De Vera và cộng sự báo cáo rằng, hiệu suất loại bỏ THMs của O3 là 25%. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Yang và cộng sự (2010) kết hợp O3 và BAC đã loại bỏ thêm 30% TOC sau quy trình xử lý truyền thống và hiệu suất loại bỏ THMFP đạt 51,1%, cao hơn hiệu suất xử lý THMFP của mô hình GAC (31,8%), do O3 đã góp phần cắt mạch của các phân tử hữu cơ lớn thành phân tử nhỏ hơn, giúp vi sinh vật bám dính trên giá thể trong bể BAC dễ hấp thu hơn. Dòng nước sau xử lý O3/BAC được tiếp tục xử lý bằng UF/NF và đạt được hiệu suất loại bỏ TOC và THMFP lần lượt là 88,7% và 84,3%.
Bảng 1. Sơ lược ưu, nhược điểm của một số phương pháp xử lý THMs
PHƯƠNG PHÁP |
ƯU ĐIỂM |
NHƯỢC ĐIỂM |
|
Hấp phụ |
GAC, CNTs |
- Có bề mặt tiếp xúc lớn và linh hoạt, hiệu quả trong xử lý TOC, THMFP |
- Quy trình hoàn nguyên vật liệu hấp phụ phức tạp |
Keo tụ, tạo bông |
- Có hiệu quả trong loại bỏ TOC, DOC |
- Cần sử dụng hóa chất - Phát sinh chất thải rắn cần xử lý thêm |
|
Thủy phân |
- Hiệu quả cao trong loại bỏ THMs trong nước cấp |
- Thời gian không đủ dài sẽ có nguy cơ gia tăng THMs |
|
Lọc sinh học |
MBR, BAF, BAC |
- Có hiệu quả trong loại bỏ chất hữu cơ trong nước |
- Dễ gây nghẹt cột lọc do sự phát triển của vi sinh vật |
Wetlands |
- Dễ vận hành, bảo trì - Dễ loại bỏ NOMs |
- Phải nuôi thực vật trước khi áp dụng, cần diện tích lớn - Thay đổi cấu trúc phân tử của DOMs, gây khó khăn trong việc loại bỏ |
|
Lọc qua màng |
UF, NF |
- Có thể thay thế clo hóa, hiệu quả trong loại bỏ THMs |
- Dễ bị nghẹt màng - Chi phí vận hành cao |
AOPs |
O3 |
- Không sinh ra THMs - Cắt mạch phân tử lớn hơn thành phân tử nhỏ hơn |
- Quá trình và thiết bị phức tạp hơn xử lý bằng clo và UV - Thiết bị và vật liệu phải bền, tránh hao mòn do O3 - Chi phí vốn và vận hành, bảo dưỡng cao |
UV |
- Mức độ bảo trì thấp - Không phản ứng với Cl2 - Không sinh ra khói độc |
- Không xử lý màu, mùi, vị - Ít tác động lên chất hữu cơ |
|
H2O2/UV |
- Khoáng hóa NOMs - Có hiệu quả cao trong xử lý DBPs và THMs |
- Năng lượng vận hành cao
|
Hình 5. Tổng hợp hiệu suất loại bỏ tiền chất, khả năng hình thành THMs và hợp chất THMs
THMs là kết quả của phản ứng giữa chlorine được sử dụng để khử trùng nước và chất hữu cơ tự nhiên trong nước. Ở nồng độ cao, THMs đã được chứng minh là có liên quan đến các ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ như ung thư và bất lợi cho phụ nữ mang thai và em bé sơ sinh. Do đó, cần phải có mối quan tâm phù hợp đối với các loại hợp chất này nhằm đảm bảo sức khỏe cộng đồng và an toàn sinh thái.
4. Kết luận
Việc loại bỏ THMs có lợi thế là cho phép các nhà máy xử lý tiếp tục thực hành công nghệ khử trùng hiện tại. Chlorine vẫn có thể tiếp tục được sử dụng như là một quá trình khử trùng, và các THMs có thể được loại bỏ bằng cách bổ sung một bước xử lý sau giai đoạn khử trùng. Một bất lợi của phương pháp xử lýTHMs đã được hình thành hơn là ngăn chặn sự hình thành của chúng từ đầu chính là các DBPs khác có thể không bị loại bỏ theo quy trình xử lý, chỉ có một vài chất nhất định được tính toán trong thiết kế. Một bất lợi khác là trên thực tế, chlorine là chất ôxy hoá, do đó, khả năng sản sinh các sản phẩm phụ ôxy hóa trong quá trình chlorine hóa vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, bất lợi lớn nhất đối với việc loại bỏ THMs đã được hình thành là chi phí xử lý cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A REVIEW ON TRIHALOMETHANES IN WATER SUPPLY Nguyễn Thị Thanh Phượng, Trần Ngọc Hân, Nguyễn Xuân Lan Institue for Environment and Resources, Vietnam National University, Hồ Chí Minh City ABSTRACT Water disinfection with chlorine is widely used to protect human health and ecological safety, requiring low cost, simple operation and inactivating pathogens rapidly. However, chlorine disinfection may result in the formation of disinfection by-products (DBPs). In particular, trihalomethanes (THMs) have been shown to have direct effects on human health. This paper summarizes the studies on the presence of THMs in water supply, its formation mechanisms and THMs removal methods in water environment. Key words: Trihalomethane (THMs), water treatment, water disinfection. |
LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã hỗ trợ để thực hiện các nghiên cứu về THMs trong bài báo này.
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề II/2018)