Banner trang chủ
Thứ Bảy, ngày 20/04/2024

Đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng (Zn, Cu, Pb, Cd) trong trầm tích phát sinh do lũ khu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum

19/04/2018

 

     TÓM TẮT

     Đi kèm với các trận lũ lịch sử thường dẫn đến các thảm họa môi trường. Từ trước đến nay, hầu hết các nghiên cứu chỉ quan tâm đến mức độ ô nhiễm, nguồn gốc ô nhiễm mà ít quan tâm đến các sự cố môi trường đặc biệt phát sinh sau các trận lũ lịch sử. Quá khứ chính là chìa khóa để giải bài toán hiện tại và tương lai, vì vậy nếu nghiên cứu được các sự cố môi trường trong lịch sử sẽ giúp chúng ta có những biện pháp phòng tránh và giảm thiểu các sự cố trong tương lai. Để đánh giá chính xác các sự cố môi trường nghiêm trọng, bài báo tập trung phân tích và đánh giá các ô nhiễm kim loại nặng trong trầm tích lũ lịch sử ở khu vực nghiên cứu. Ô nhiễm kim loại nặng được quan tâm do tính độc hại và bền vững trong môi trường [8,9]. Vì vậy, bài báo xác định hàm lượng kim loại nặng trong các lỗ khoan trầm tích lũ tại vùng nghiên cứu. Mẫu trầm tích được thu tại lưu vực sông PoKo, tỉnh Kon Tum. Kết quả cho thấy, hiện diện của Zn, Cu và Pb trong trầm tích tăng dần từ quá khứ đến hiện tại. Đánh giá mức độ ô nhiễm các kim loại trong trầm tích sông PoKo bằng chỉ số tích lũy địa chất Igeo, cho thấy, trầm tích sông PoKo có biểu hiện ô nhiễm kim loại nặng, với 4 lần ô nhiễm trầm tích sau 4 trận lũ tại khu vực. Như vậy, điều này cho thấy, sự cố môi trường có thể xảy ra ngay sau khi có lũ. Khi có lũ, nước bề mặt với tốc độ dòng chảy lớn sẽ vận chuyển các chất ô nhiễm phân tán đi các vùng khác, kéo theo các chất gây ô nhiễm từ nước bề mặt và trầm tích tại thượng nguồn xuống hạ nguồn - vùng dân cư đang sinh sống [10].

     Từ khóa: Sự cố môi trường, kim loại nặng, ô nhiễm trầm tích, PoKo, lũ lịch sử.

 

ASSESMENT OF HEAVY METAL POLLUTION IN SEDIMENT IN THE PÔ KÔ RIVER, KON TUM PROVINCE

Nguyễn Thị Oanh

School of Interdisciplinary, VNU

Vũ Văn Tích, Đỗ Thu Hiền, Hoàng Văn Hiệp, Vũ Việt Đức, Hà Sỹ Trung

University of Science, VNU

     ABSTRACT

     Paleofloods often lead to environmental catastrophes. Most researches have only concerned pollution levels and sources of pollution, but there are a few researches on environmental problems, especially the consequence of paleofloods. The past is the key to solving current and future problems. Thus, if we study environmental incidents in history, we will have to prevent and minimize future incidents. To assess severe environmental incidents accurately, the paper focuses on analyzing and evaluating heavy metal pollution in the sediment in the PoKo River basin, Kon Tum Province. Heavy metal pollution is concerned due to its toxicity and sustainability in the environment. Therefore, the article determines the heavy metal contents in the drilled sediment cores in the researching area. The sediment samples in the Poko River Basin were collected. The results show that the presence of Zn, Cu and Pb in the sediments has been increasing from past to present. To assess heavy metal contamination in sediment, we use the Igeo index. This Igeo index in the sediment after the four paleofloods in the cores stays at medium level. This indicates that environmental problems can occur right after floods. Whenever floods break out, the surface flow at high speed transports the pollutants in the surface water and sediment to different regions, from the upstream to the downstream where residents are settling.

     Key words: Environmental pollution, heavy metal, sediment pollution, PoKo river.

 

     1. Đặt vấn đề

     Quá trình phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ như y tế, du lịch, thương mại, nhất là hoạt động khai thác khoáng sản trong các khu vực núi cao trong lưu vực sông… ở nước ta đã làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt sự hiện diện của kim loại nặng trong môi trường đất, nước đã và đang là vấn đề được cộng đồng quan tâm [6,7]. Trong môi trường thủy sinh, trầm tích có vai trò quan trọng trong sự hấp thụ các kim loại nặng bởi sự lắng đọng của các hạt lơ lửng và các quá trình có liên quan đến bề mặt các vật chất vô cơ và hữu cơ trong trầm tích. Hệ thống sông khu vực Tây Nguyên nói chung và thượng lưu sông Sê San nói riêng đóng vai trò rất quan trọng, đây không chỉ là nơi sinh sống của số đông dân cư mà còn là nơi gắn chặt với các hoạt động kinh tế xã hội. Tuy nhiên, trong quá khứ và hiện tại hàng năm phải gánh chịu thường xuyên các hậu quả nặng nề như bão, lũ lụt [8]. Kéo theo đó là hàng loạt vấn đề về ô nhiễm môi trường lưu vực sông do các tác động cộng hưởng của các hoạt động nhân sinh cũng như ảnh hưởng của tự nhiên để lại. Do vậy, xác định hàm lượng kim loại nặng trong môi trường là rất cần thiết do tính độc hại, tính bền vững và sự tích tụ sinh học của chúng.

     2. Thu thập mẫu và phương pháp nghiên cứu

     Nhóm nghiên cứu thu thập mẫu tại các trầm tích liên quan tới các trận lũ lịch sử trong khu vực, trường ở khu vực nghiên cứu là các hồ móng ngựa (nơi ghi nhận được các trận lũ lịch sử trong quá khứ, xác minh từ các công trình nghiên cứu từ trước [10]).

     2.1. Khảo sát lấy mẫu

     Qua quá trình khảo sát thực tế, chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu trầm tích vào tháng 12/2016 tại 3 vị trí KS2, KS5 và KS6 (Hình 1).

Hình 1. Sơ đồ vị trí thu mẫu đất, mẫu trầm tích tại khu vực nghiên cứu

     Các mẫu lấy lên được chứa trong các ống nhựa PVC, được bịt kín 2 đầu để tránh mất mẫu và xáo trộn mẫu. Lõi khoan được bảo quản nguyên trạng và mang về xử lý, phân tích tại phòng thí nghiệm. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành bổ dọc cột lõi khoan và lấy mẫu đem xử lý phân tích [2, 3].

     2.2. Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) [4, 13]

     Mẫu được phân tích bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) tại Phòng thí nghiệm trọng điểm địa chất môi trường và thích ứng với BĐKH của Khoa Địa chất, trường ĐH Khoa học Tự nhiên. Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử có độ chọn lọc rất cao và có giới hạn phát hiện có thể tới cỡ µg/kg, vì vậy nó được xem là một phương pháp tiêu chuẩn để xác định hàm lượng các ion kim loại. Phương pháp này được tiến hành qua các bước [1] sau:

     Bước 1: cân lượng mẫu khoảng 0,1 g mẫu (mẫu đã sấy khô và nghiền mịn);

     Bước 2: cho mẫu và 2 ml HNO3 65 % và 5 ml HCl 37% và 1 ml HF vào ống, đậy chặt nắp rồi đặt đối xứng vào lò vi sóng.

     Bước 3: pha loãng dung dịch và đưa vào máy phân tích. Dung dịch mẫu trầm tích sau khi định mức đến 10 ml, được sử dụng máy phân tích quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS (Agilent Technologies 200 series AA)  để đo hàm lượng các kim loại Cu, Zn, Cd, Pb, Mn.

     2.3. Phương pháp xử lý số liệu

     Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu. Số liệu trước khi xử lý thống kê phải được đưa về phân bố chuẩn. Sau đó các chỉ tiêu thu thập được phân tích phương sai theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên 2 nhân tố. Khi ảnh hưởng của nhân tố và tương tác có ý nghĩa thống kê, sử dụng kiểm định Duncan ở mức ý nghĩa 5% [1].

     3. Kết quả và thảo luận

     3.1. Hàm lượng Zn tại vùng nghiên cứu

     Kẽm là một nguyên tố vi lượng cần thiết đối với con người và động thực vật. Khi hàm lượng kẽm trong cơ thể lớn quá có thể tạo ra các tác dụng ngược lại gây ra các bệnh như ngộ độc thần kinh, hệ miễn nhiễm [5]. Hàm lượng Zn trong mẫu dao động từ 100,16 đến 389,2 mg/kg; với mực trung bình là 201,93 mg/kg, thấp hơn so với tiêu chuẩn cho phép là 315 mg/kg. Tuy nhiên tại một số điểm tại điểm khảo sát KS02 như T2,T4; điểm khảo sát KS05 như T3,T6,T9; điểm khảo sát KS06 như T4, T10, T12, T14 hàm lượng kẽm tăng đột biến và cao hơn mức tiêu chuẩn cho phép (Hình 2).

Hình 2. Đồ thị biến thiên hàm lượng Zn trong các tập trầm tích (T2, T4 của KS2, T3 của KS5, T4 của KS6 là các điểm có cùng độ cao)

     Áp dụng các tích chỉ số ô nhiễm Igeo [5] như trên, ta có kết quả tính toán giá trị Igeo và biểu thị các giá trị Zn như sau. Kết quả (Hình 3) cho thấy, hàm lượng Zn khác biệt có ý nghĩa hàm lượng kẽm giảm dần khi càng xa nơi tập trung dân cư, điều này cho thấy rằng chất thải đô thị từ nội ô thành phố Kon Tum có thể là nguyên nhân làm gia tăng hàm lượng kẽm. Mặt khác, theo Morillo et al (2004) trong số các kim loại (Cu, Zn, Cd, Pb, Fe, Ni, Cr, Mn) Zn là nguyên tố có tính dễ di động nhất và dễ dàng phóng thích từ trầm tích sang môi trường nước khi điều kiện môi trường thay đổi. Tại điểm KS6 các giá trị tại tập 4, tập 10, tập 12 và tập 14 (Hình 3) có giá trị cao nhất. Tương tự với các điểm KS02 và KS05, xác định được các tập T3, T6, T9 tại điểm KS05; T2, T4 tại điểm KS02 có giá trị Igeo cao. Bước đầu xác lập được 4 vị trí có ô nhiễm kẽm trên mức trung bình.

Hình 3. Kết quả giá trị Igeo của hàm lượng Zn tại điểm KS2, KS5, KS6

     3.2. Hàm lượng Pb tại vùng nghiên cứu

     Chì là nguyên tố nặng và có số nguyên tố cao nhất trong các nguyên tố bền. Pb là nguyên tố ít linh động nên thường được tính đọng lại trong các tập trầm tích của môi trường yên tĩnh. Hàm lượng Pb dao động từ 11.36 mg/kg đến 116.94 mg/kg. Tại điểm KS05 có hàm lượng Pb cao hơn hẳn các vị trí khác, đặc biệt tại điểm KS02 và KS06 hàm lượng cao hơn quy chuẩn định ra của Bộ TN&MT. Đây là lớp trầm tích do lũ năm 2009 mang đến, thêm vào lại là vị trí có hoạt động khai khoáng của người dân trong vùng là một phần nguyên nhân hàm lượng kim loại Pb cao hơn những điểm khác. Áp dụng các tích chỉ số ô nhiễm Igeo như trên, ta có kết quả tính toán giá trị Igeo như sau:

     Theo chiều sâu của cột trầm tích thì hàm lượng chì tại điểm khảo sát KS02 và KS06 có giá trị tăng mạnh và giảm dần, tại điểm khảo sát KS5 có giá trị tăng dần (Hình 4).

     Các giá trị Igeo tại điểm KS2, KS5, KS6 đều ở mức ô nhiễm trung bình. Tại điểm KS6 các giá trị tại tập 4, tập 10 có giá trị cao nhất. Tương tự với các điểm KS02 và KS05, xác định được các tập T3, T6, T9 tại điểm KS05; T4 tại điểm KS02 có giá trị Igeo cao. Bước đầu xác lập được 3 vị trí có ô nhiễm chì trên mức trung bình (Hình 5).

Hình 4. Đồ thị biến thiên hàm lượng chì trong các tập trầm tích Hình 5. Kết quả giá trị Igeo của hàm lượng chì tại điểm KS2, KS5, KS6
Hình 6. Đồ thị biến thiên hàm lượng đồng trong các tập trầm tích

Hình 7. Kết quả giá trị Igeo của hàm lượng đồng tại điểm KS2, KS5, KS6

     3.3. Hàm lượng Cu tại vùng nghiên cứu

     Trong các tập trầm tích hàm lượng Cu trung bình là 55.3 mg/kg. So với tiêu chuẩn của Bộ TN&MT với trầm tích nước ngọt là 197 mg/kg, hầu hết tất cả các vị trí đều đạt mức cho phép, không ô nhiễm. Tuy nhiên tại vị trí điểm khảo sát KS05, phát hiện 3 điểm tại 3 tập là T3, T6, T9 có hàm lượng đồng cao hơn hẳn các lớp trầm tích khác, bước đầu khẳn định phát hiện 3 lớp ô nhiễm đồng tại khu vực (Hình 6).

     Áp dụng phương thức tính chỉ số Igeo, ta có kết quả như sau: Tại điểm khảo sát KS2 và KS6 không phát hiện ô nhiễm đồng. Tại điểm KS5 phát hiện ô nhiễm đồng ở mức độ trung bình tại các điểm thuộc các tập T2 và T4. Bước đầu phát hiện 2 vị trí ô nhiễm động trong các lớp trầm tích tại khu vực. Từ các kết quả phân tích hàm lượng đồng theo chiều sâu của cột trầm tích phần nào giúp đánh giá được lịch sử ô nhiễm (Hình 7).

    3.4. Hàm lượng Cd trong vùng nghiên cứu

     Cd hiện diện khắp nơi trong lớp vỏ của trái đất với hàm lượng trung bình khoảng 0,1 mg/kg. Hàm lượng Cd được ghi nhận có thể lên đến 5 mg/kg trong các trầm tích sông và hồ. Cd là một kim loại rất độc hại đối với cơ thể người vì nó có khả năng tích lũy sinh học rất cao. Khi xâm nhập vào cơ thể nó can thiệp vào các quá trình sinh học, các enzim liên quan đến Zn, Mg và Ca, gây tổn thương đến gan, thận, gây nên bệnh loãng xương và bệnh ung thư [5].

     Kết quả phân tích bằng quang phổ hấp phụ nguyên tử trên lò Graphit cho thấy hàm lượng của Cd dao động nhỏ từ 1,82 - 4,3 mg/kg, thấp hơn hàm lượng Cd theo quy chuẩn. Áp dụng phương thức tính chỉ số Igeo, ta thấy không phát hiện ô nhiễm Cd trong khu vực nghiên cứu.

      3.5. Thảo luận    

     Kết quả phân tích hàm lượng các kim loại Cd, Pb, Zn, Cu cho, hàm lượng các kim loại Cd, Pb, Zn có những lớp đã vượt quy chuẩn, hàm lượng Cd chưa vượt quy chuẩn nhưng cũng đạt mức cao. Từ những kết quả và nhận định tổng hợp lại, có thể thấy, kết quả phân tích khá tương đồng với sự quan sát bằng cảm quan. Những lớp trầm tích đen, sẫm màu (như điểm khảo sát KS02 có lớp KS05, KS06 là lớp bột sét sẫm màu) có hàm lượng kim loại nặng cao hơn so với các lớp khác.

Hình 8. Đồ thị biến thiên hàm lượng Cadimi trong các tập trầm tích

     Với địa hình thẳng, dốc cùng với lượng mưa hàng năm tập trung chủ yếu vào một số thời điểm đã gây nên nhiều trận lũ và ngập úng. Mưa lớn gây ngập úng cục bộ tại khu vực trũng, cuốn theo các chất ô nhiễm (đất đá, vật chất hữu cơ từ quá trình phong hóa hàng nghìn năm) trên bề mặt, tích tụ lại gây ô nhiễm các lớp trầm tích. Từ Holocen trở lại đây, khu vực nghiên cứu đã phát hiện nhiều điểm quặng, các mỏ khai thác khoáng sản (vàng, grafit…) quy mô từ nhỏ đến lớn. Khi có xuất hiện lũ do mưa lớn, các dòng lũ sẽ cuốn theo một lượng lớn chất thải rắn từ đây chảy ra các sông suối, lắng đọng lại. Có thể sẽ là nguyên nhân chính gây ô nhiễm các lớp trầm tích. Hay có thể nhận định rằng, nguồn gốc ô nhiễm từ hoạt động khai khoáng là một trong những hoạt động gây ô nhiễm lớn nhất.

     Các kim loại trong trầm tích có sự tích lũy theo thời gian, chúng gia tăng trong trầm tích trong các trận lũ những năm gần đây. Trong các cột trầm tích, các lớp trầm tích do lũ để lại có hàm lượng kim loại nặng cao ở các tầng trầm tích gần mặt, ở dưới sâu trong các cột lỗ khoan thì có hàm lượng các kim loại nhỏ hơn. Sự gia tăng của hàm lượng các kim loại này có những nguyên nhân từ sự gia tăng hoạt động của con người.

     Tại khu vực nghiên cứu - lưu vực sông PoKo thuộc tỉnh Kon Tum, nhận thấy có hoạt động của nhiều Nhà máy cao su, sản suất giấy… sản xuất nông nghiệp chủ yếu tập trung 2 bên bờ sông. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động khai thác khoáng sản, sản xuất công nghiệp… nói trên đang ngày càng gia tăng, việc này rất có thể sẽ trở thành nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường trầm tích, không chỉ có Cd, Pb, Zn, Cu  mà còn có các yếu tố gây ô nhiễm khác như xút, clo, các nhóm cacbuarhydro…

     Khi môi trường thay đổi đột ngột sẽ làm tăng hoặc giảm hàm lượng của các nguyên tố. Đặc biệt nếu mưa lũ xảy ra sẽ làm cho quá trình lắng đọng trầm tích bị xáo trộn và cuốn theo các hợp chất từ nơi khác đến và tại chỗ đi xa làm cho hàm lượng các nguyên tố tăng, giảm đột ngột hoặc mất đi. Có thể khẳng định, lịch sử ô nhiễm trong các lớp trầm tích gắn liền với các trận lũ cùng cường độ đáng kể.

     4. Kết luận

     Các kết quả nghiên cứu này góp phần quan trọng trong việc phòng tránh các thảm họa môi trường trong tương lai, đặc biệt có định hướng phòng tránh các ô nhiễm do lũ lịch sử để lại trong trầm tích khu vực Tây Nguyên. Với mục tiêu đặt ra và các kết quả chính đạt được trong đề tài, nhóm tác giả đưa một số kết luận và kiến nghị sau:

     - Đã xác định được 4 lần ô nhiễm kim loại trong trầm tích sông PoKo sau 4 trận lũ tại khu vực. Đánh giá mức độ ô nhiễm này dựa trên chỉ số tích lũy địa chất Igeo, nồng độ kim loại nặng Cd, Pb, Zn có những lớp đã vượt quy chuẩn, đặc biệt những lớp xuất hiện ngày sau lũ. Điều này cho thấy, sự cố môi trường có thể xảy ra ngay khi có lũ. Khi có lũ, nước bề mặt với tốc độ dòng chảy lớn sẽ vận chuyển các chất ô nhiễm phân tán đi các vùng khác, kéo theo các chất gây ô nhiễm từ nước bề mặt và trầm tích tại thượng nguồn xuống hạ nguồn - vùng dân cư đang sinh sống.

     -  Bước đầu đã đưa ra nhận định về nguồn tích lũy của các kim loại Cu, Pb, Zn và Cd trong 3 cột trầm tích trên. Theo đó nguồn tích lũy chủ yếu của các kim loại Cu, Pb, Cd là từ nguồn nước thải của các cơ sở sản xuất công nghiệp. Riêng nguồn tích lũy kim loại Zn, bên cạnh từ nguồn nước thải của các cơ sở sản xuất công nghiệp còn đến từ một nguồn rất quan trọng khác là từ sự rửa trôi các loại đất đá tự nhiên có chứa kim loại Zn.

     -  Nhân dân các tỉnh trong vùng cần tránh khai thác nước trong các trầm tích lũ lịch sử, thay vào đó là khai thác nước ngầm trong các khu vực trầm tích sông hoặc các đới dập vỡ kiến tạo hiện đại, khi đó sẽ có mức độ ô nhiễm thấp hơn.

     TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. APHA (1998), Standard methods for the examination of water and wastewater, 20th Edition, American Public Health Association.
  2. Adriano D. C (2001), “Trace elementsin terrestrial environments; biogeochemistry, bioavailability and risks of metals”, Springer: New York, 2ndEdition.
  3. Edward D. Burton, Ian R. Phillips, Darryl W. Hawker (2004), Reactive sulfide relationships with trace metal extractability in sediments from southern Moreton Bay, Australia, Baseline / Marine Pollution Bulletin 50, 583-608.
  4. Houba V. J. G, Van Der Lee, Novozamsky (1995), Soil and Plant Analysis, Department of Soil Science and Plant Nutrition,
  5. Wageningen Agricultural University Morillo J, Usero J, Gracia I (2004), Heavy metal distribution in marine sediments from the southwest coast of Spain, Chemosphere 55, 431-442.
  6. Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (2004),
  7. Tuyển tập các tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về môi trường (Tập 1).
  8. Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (2004),
  9. Tuyển tập các tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về môi trường (Tập 4).
  10. Nghiên cứu xác lập cường độ và tần xuất của các trận lũ lịch sử lưu vực sông Se San từ Holocen trở lại đây. Đề tài khoa học và công nghệ cấp nhà nước thuộc Chương trình Khoa học công nghệ phục vụ phát triển bền vững khu vực miền Trung Tây Nguyên.

Nguyễn Thị Oanh

Khoa Các khoa học liên ngành, ĐH Quốc gia Hà Nội

Vũ Văn Tích, Đỗ Thu Hiền, Hoàng Văn Hiệp, Vũ Việt Đức, Hà Sỹ Trung

Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề I/2018)

 

Ý kiến của bạn