20/11/2025
Ở tỉnh biên giới Điện Biên - nơi địa hình bị chia cắt, điều kiện sản xuất khó khăn và tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao - “giảm nghèo bền vững” đã không còn là khẩu hiệu. Chỉ trong vài năm, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm nhanh, nhiều bản làng hình thành chuỗi sinh kế gắn với lợi thế bản địa, nhà ở – nước sạch – hạ tầng thiết yếu được củng cố, và quan trọng hơn cả là tư duy sản xuất của người dân chuyển từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa. Theo các báo cáo địa phương, đến cuối năm 2024 tỷ lệ hộ nghèo của Điện Biên giảm còn khoảng 21,29% (từ 25,6% năm 2023), còn tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 36,97% xuống 33,24% - những con số cho thấy bước tiến rõ rệt khi chính sách hỗ trợ cụ thể cho từng hộ, từng bản.
Hiệu quả đến từ ruộng nương: mô hình sinh kế “trúng- chuẩn - có đầu ra”
Mục tiêu tỉnh Điện Biên năm 2025 là phấn đấu đưa tỷ lệ hộ nghèo đa chiều về quanh 17–18%, với tốc độ giảm bình quân gần 4–5%/năm, trong đó các huyện nghèo giảm nhanh hơn nhờ các gói hỗ trợ sản xuất – sinh kế tập trung.
Điểm nhấn của Điện Biên là cách làm “đủ bộ”: chọn đúng cây – con – nghề phù hợp sinh thái; hỗ trợ giống, vật tư, kỹ thuật đi kèm liên kết tiêu thụ; và tổ chức sản xuất ở quy mô nhóm hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã. Nhờ vậy, nhiều mô hình sinh kế đã vượt khỏi phạm vi thí điểm để trở thành nguồn thu ổn định của hộ nghèo.
Bí xanh Mường Chà – “cây giảm nghèo” của bản Púng Giắt. Năm 2024, mô hình trồng bí xanh tại xã Mường Mươn được người dân gọi là “cây giảm nghèo” bởi hiệu quả kinh tế và sự thay đổi tư duy sản xuất. Giai đoạn khởi đầu có 10 hộ ở bản Púng Giắt 1, Púng Giắt 2 tham gia, 2,6 ha canh tác với tổng kinh phí 260 triệu đồng từ Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững. Nhờ tập huấn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm từng phần, mô hình mở rộng và mang lại thu nhập rõ rệt cho các hộ tham gia.
Không chỉ dừng ở quy mô nhỏ, liên kết với HTX đã biến bí xanh thành chuỗi sản phẩm có thương hiệu địa phương: nhiều điểm trồng cộng hưởng thành vùng nguyên liệu, sản lượng ổn định, doanh thu bình quân đạt hàng trăm triệu đồng/ha/năm, qua đó tạo việc làm tại chỗ và giảm áp lực di cư lao động.

Chất lượng cà phê Mường Ảng đã được khẳng định và có giá cao
Cà phê Arabica Mường Ảng – lợi thế khí hậu được chuẩn hóa thành sản phẩm hàng hóa. Với hơn 4.000–5.000 ha Arabica, Mường Ảng đã từng bước chuẩn hóa khâu canh tác, thu hái, sơ chế, nâng chất lượng hạt, mở rộng kênh tiêu thụ và xây dựng hình ảnh “Cà phê Mường Ảng” trên thị trường. Việc gắn hỗ trợ kỹ thuật – xúc tiến thương mại giúp cà phê không chỉ là cây xóa đói giảm nghèo mà còn là cây làm giàu, gia tăng thu nhập cho nông hộ và việc làm theo mùa vụ tại địa phương.
Dứa mật Pu Lau – câu chuyện chuyển đổi cây trồng thành “giỏ thu nhập” mới. Tại bản Pu Lau (xã Mường Nhà), người dân chuyển một phần đất ngô, lúa nương sang dứa mật—loại quả đặc trưng, quả to, ít gai, vị ngọt đậm, không rát lưỡi. Sự vào cuộc của chính quyền (vận động chuyển đổi, hướng dẫn kỹ thuật, kết nối tiêu thụ) giúp dứa nhanh chóng bén rễ, trở thành mô hình thoát nghèo tiêu biểu, đặc biệt với phụ nữ dân tộc thiểu số. Nhiều hộ thu hàng chục triệu đồng mỗi vụ, tạo “đệm” tài chính để tái đầu tư sản xuất.
Bên cạnh ba điển hình trên, Điện Biên còn đa dạng hóa sinh kế với mắc ca, quế, chanh leo, ong mật, lúa gạo Mường Thanh, rau củ ôn đới… Các lĩnh vực này khi được “đủ bộ” hỗ trợ (giống – vật tư – kỹ thuật – bao bì – nhãn mác – truy xuất nguồn gốc – xúc tiến thương mại) đã tăng giá trị nông sản, thu hút doanh nghiệp – HTX tham gia chuỗi, và tạo sức bật cho hộ nghèo.
Điều gì làm nên hiệu quả ở tầng hộ gia đình? Đúng nhu cầu – đúng thời điểm (phân bổ vốn, giống, vật tư, đào tạo trúng mùa vụ, tránh hỗ trợ dàn trải); liên kết tiêu thụ tối thiểu (có hợp đồng/biên bản ghi nhớ với doanh nghiệp – HTX để giảm rủi ro “được mùa rớt giá”); tổ chức sản xuất (nhóm hộ/HTX dẫn dắt về kỹ thuật, lịch canh tác, sơ chế, đóng gói, giúp hàng hóa đồng đều – đủ lớn); minh bạch đầu vào – đầu ra (truy xuất nguồn gốc, chuẩn chất lượng VietGAP/OCOP để nâng giá bán).
Kết quả cộng hưởng thể hiện ở bức tranh tổng thể: đến cuối 2024, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm nhanh theo năm; nhiều chỉ tiêu vượt kế hoạch của giai đoạn trung hạn, tạo đà để các huyện nghèo tiếp tục giảm sâu trong 2025.
Chính sách “chạm” tới người dân
Nếu “ruộng nương” là nơi tạo ra giá trị, thì chính sách là “đường dẫn” đưa giá trị ấy đến từng hộ. Điện Biên đã chuyển từ hỗ trợ manh mún sang đầu tư có hệ thống, kết hợp an sinh thiết yếu (nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục) với sinh kế dài hạn (đào tạo nghề, tín dụng chính sách, hạ tầng phục vụ sản xuất). Nhờ triển khai đồng bộ, giai đoạn 2023–2024 nhiều chỉ tiêu giảm nghèo đạt và vượt; mục tiêu 2025 tiếp tục đặt mốc giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều xuống khoảng 17–18%.
Nhà ở – nước sạch – dịch vụ công cơ bản được coi là “lưới an toàn” để người nghèo không tái nghèo sau cú sốc (ốm đau, thiên tai, đứt gãy thị trường). Cùng với đó là đào tạo nghề theo nhu cầu, mỗi năm hàng nghìn lao động được bồi dưỡng kỹ năng gắn với mô hình thực tế, giúp tăng năng suất và khả năng thích ứng. Khi hạ tầng nông thôn (đường nội đồng, thủy lợi nhỏ, điện sản xuất) được ưu tiên đúng “điểm nghẽn”, chi phí vận chuyển – bảo quản giảm, giá trị gia tăng ở ngay tại bản làng.
Vì sao chính sách đang phát huy hiệu quả? Thiết kế theo chuỗi (từ hỗ trợ đầu vào đến liên kết đầu ra, có đơn vị “đỡ đầu” và cơ chế giám sát kết quả); trao quyền cho cơ sở (xã/bản chủ động chọn mô hình phù hợp, cấp huyện/tỉnh làm “nhạc trưởng” kết nối nguồn lực); cầm tay chỉ việc (khuyến nông – khuyến lâm – khuyến công vào tận rẫy, đào tạo “nông dân nòng cốt” để lan tỏa kỹ thuật); công khai – minh bạch (phân bổ vốn, tiêu chí thụ hưởng, tiến độ công trình, kết quả mô hình được công bố, tạo đồng thuận xã hội).

Dứa mật Pu Lau giúp nhiều hộ dân thoát nghèo
Những việc cần làm để đi vào chiều sâu trong thời gian tới: Khép kín chuỗi giá trị – củng cố liên kết thị trường (ưu tiên kho mát, máy sấy, điểm tập kết đạt chuẩn; tem truy xuất; bao bì – nhãn mác; hợp đồng bao tiêu linh hoạt). Nâng “chất” đào tạo nghề và dịch vụ khuyến nông – khuyến lâm (đào tạo theo vụ/định kỳ, chuẩn hóa giáo trình gắn chỉ số đầu ra, phát triển “hạt nhân kỹ thuật” ở bản). Lồng ghép tín dụng chính sách vào gói sinh kế hoàn chỉnh (giống – vật tư đúng thời điểm, hợp đồng tiêu thụ, bảo hiểm rủi ro, tư vấn tài chính hộ). Ưu tiên hạ tầng phục vụ sản xuất ở “lõi nghèo” (bản đồ điểm nghẽn hạ tầng nhỏ, cơ chế bảo trì cộng đồng). Chuyển đổi số “vừa tay” nông hộ (nhật ký sản xuất số, cảnh báo thời tiết – sâu bệnh – giá cả; chợ trực tuyến cấp cơ sở; điểm hỗ trợ số). Gắn sinh kế với du lịch cộng đồng – văn hóa bản địa (bộ tiêu chí tối thiểu, gói hỗ trợ nhỏ, đào tạo nghiệp vụ). Đo lường tiến bộ bằng bộ chỉ số “đời sống hộ nghèo” (thu nhập, nước sạch, nhà vệ sinh đạt chuẩn, trẻ đến lớp đúng tuổi, khoảng cách tới điểm thu mua, tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất).
Câu chuyện Điện Biên cho thấy, khi chính sách “đủ bộ” gặp mô hình sinh kế “trúng – chuẩn – có đầu ra”, giảm nghèo không chỉ là kết quả của một mùa vụ hay một năm ngân sách, mà là năng lực tự vươn lên của cộng đồng. Từ bí xanh ở Mường Chà, dứa mật ở Pu Lau đến Arabica Mường Ảng, các mô hình đều chung một mẫu số: tổ chức sản xuất – chuẩn chất lượng – liên kết thị trường. Bức tranh giảm nghèo bền vững ở Điện Biên sẽ tiếp tục sáng màu nếu trong giai đoạn tới, tỉnh kiên trì khép kín chuỗi giá trị, nâng chất đào tạo, lồng ghép tín dụng – bảo hiểm, ưu tiên hạ tầng nhỏ, thúc đẩy chuyển đổi số, gắn sinh kế với du lịch và đo lường bằng chỉ số đời sống thực. Khi đó, mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều xuống dưới 18% và xa hơn là giảm nghèo theo chiều sâu sẽ là đích đến trong tầm tay.
Theo Minh Anh (https://suckhoeviet.org.vn/)