13/03/2015
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Ramsar từ năm 1989 và trở thành thành viên thứ 50 của Công ước, đồng thời cũng là nước đầu tiên ở Đông Nam Á tham gia Công ước. Việt Nam là nước có nhiều hệ sinh thái ĐNN, chủ yếu phân bố ở châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Cửu Long cũng như dọc bờ biển dài trên 3.260 km. Theo các nhà khoa học, Việt Nam có khoảng hơn 25 vùng ĐNN đáp ứng các tiêu chí của vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế theo Công ước Ramsar. Tuy nhiên, đến nay, Việt Nam mới chỉ có 6 khu ĐNN được công nhận vào danh sách các khu Ramsar là: Vườn quốc gia (VQG) Xuân Thủy, khu hệ ĐNN Bầu Sấu thuộc VQG Cát Tiên, VQG Ba Bể, VQG Tràm Chim, VQG Mũi Cà Mau và VQG Côn Đảo.
VQG Xuân Thủy - nơi dừng chân và trú đông của các loài chim nước di cư
Năm 1988, khu bãi bồi ở phía Nam cửa sông Hồng thuộc huyện Xuân Thủy (tỉnh Nam Định) được công nhận là khu Ramsar thứ 50 của thế giới và là đầu tiên của khu vực Đông Nam Á và duy nhất của Việt Nam.
Quang cảnh khu hệ ĐNN Bàu Sấu
Xuân Thủy có 14 kiểu sinh cảnh, bao gồm các sinh cảnh tự nhiên và sinh cảnh nhân tạo. Sinh cảnh có giá trị đa dạng sinh học cao nhất là các bãi bồi và rừng ngập mặn tự nhiên ít bị tác động. Thực vật ưu thế trong rừng ngập mặn thuộc về loài trang. Trong khu vực có trồng một ít cây bần, ngoài ra còn có loài tra và loài ô rô mọc tự nhiên rải rác trong toàn khu vực.
Do sự đa dạng và tình trạng tương đối nguyên vẹn của các sinh cảnh, VQG Xuân Thủy là nơi dừng chân và trú đông quan trọng của các loài chim nước di cư. Qua các đợt khảo sát năm 1988 và 1994 đã quan sát được trên 20.000 cá thể chim nước trong khu vực. Vào mùa xuân năm 1996, có khoảng trên 33.000 con chim biển bay qua VQG. VQG là nơi thường xuyên ghi nhận 8 loài chim bị đe dọa và sắp bị đe dọa ở mức toàn cầu, đó là: Cò thìa, cò trắng Trung Quốc, choắt lớn mỏ vàng, mòng bể mỏ ngắn, bồ nông chân xám, rẽ mỏ thìa, giang sen, choắt chân màng lớn. Ghi nhận đáng chú ý nhất ở Xuân Thủy là tồn tại quần thể loài cò thìa lớn nhất tại Việt Nam. Ngoài ra, Xuân Thủy là nơi tập hợp, trú chân quan trọng của nhiều loài chim nước phổ biến di cư trong mùa đông như choắt mỏ thẳng đuôi đen, choắt chân đỏ và choắt mỏ cong lớn. Do có tầm quan trọng quốc tế trong công tác bảo tồn các loài chim, Xuân Thủy đã được công nhận là một trong số các vùng chim quan trọng tại Việt Nam.
Khu hệ ĐNN Bàu Sấu - Môi trường sống của loài cá sấu xiêm
Gần 20 năm sau, năm 2005, Khu Bàu Sấu nằm trong VQG Cát Tiên (tỉnh Đồng Nai) được công nhận là Ramsar thứ 1499 của thế giới, đồng thời là khu Ramsar thứ hai của Việt Nam. Hệ sinh thái, động thực vật tại khu vực Bàu Sấu rất phong phú, trong đó có khoảng 70-80 con bò tót, ngoài ra còn có các loài động vật quý hiếm như tê giác Java, voi châu Á, gấu chó, gấu ngựa, hổ, báo... Theo ngôn ngữ của người Chăm cổ, Bàu Sấu có nghĩa là hồ nước có nhiều cá sấu sinh sống. Vì thế khu vực này là môi trường sống của loài cá sấu xiêm. Loài cá sấu xiêm đang trong tình trạng bảo tồn ở mức rất nguy cấp (CR) theo Sách đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục đỏ của IUCN (2012). Từ năm 2001 đến năm 2005, VQG Cát Tiên đã phục hồi quần thể cá sấu nước ngọt ở Bàu Sấu, bằng cách tái thả 60 cá thể cá sấu trưởng thành sau khi đã kiểm tra ADN đảm bảo thuần chủng, phục hồi bản năng tự nhiên như bắt mồi, sinh sản cho chúng. Đây là chương trình phục hồi loài cá sấu nước ngọt trong môi trường tự nhiên thành công đầu tiên của Việt Nam.
Loài cò thìa tại VQG Xuân Thủy
Bàu Sấu nằm trong vùng chim đặc hữu của vùng đất thấp Nam Việt Nam, với 158 loài chim nước, chiếm 44% các loài chim ở VQG Cát Tiên, trong đó có 60 loài sống mật thiết với các vùng ĐNN, bao gồm cả các loài bản địa, các loài chim di trú. Thiếu chim nước, ĐNN thiếu một trong những nhân tố chính trong chuỗi xích thức ăn của hệ sinh thái. Khu hệ chim nước cùng với sự đa dạng các loại hình sinh cảnh ĐNN đã tạo thêm tiềm năng du lịch sinh thái hấp dẫn ở VQG Cát Tiên. Các loài chim quý hiếm khác như hạc cổ trắng, công, già đẫy java, cò quắm cánh xanh, ngan cánh trắng…
VQG Ba Bể - Viên ngọc xanh của núi rừng Đông Bắc
Năm 2011, VQG Ba Bể (Bắc Cạn) được công nhận là khu Ramsar thứ 1.938 của thế giới và thứ 3 của Việt Nam. VQG Ba Bể được đánh giá là một hệ sinh thái độc đáo, có trung tâm là hồ Ba Bể nằm trên độ cao 178 m được xác định là hồ tự nhiên lớn trên núi ở Việt Nam. VQG Ba Bể là nơi có các sinh cảnh nước ngọt rất đa dạng, trong đó có nhiều các ao tù nhỏ và các vùng đầm lầy. VQG Ba Bể có tầm quan trọng cao trong hệ thống khu bảo tồn của Việt Nam và là nơi duy nhất bảo vệ hệ sinh thái hồ nước ngọt tự nhiên trong vùng đá vôi.
Hồ Ba Bể là hồ nước ngọt tự nhiên trên núi đá vôi độc đáo nhất Việt Nam
Hồ Ba Bể là khu có khu hệ cá nước ngọt đa dạng nhất trong hệ thống các khu bảo tồn của Việt Nam với 106 loài cá. Theo đánh giá của nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế, VQG Ba Bể là một điểm nóng về đa dạng sinh học với sự có mặt của nhiều loài đang bị đe dọa ở các cấp độ khác nhau. Ba Bể đặc biệt quan trọng do là nơi phân bố của các quần thể của các loài sắp nguy cấp là cầy vằn bắc và voọc đen má trắng. VQG Ba Bể có tổng số khoảng 235 loài chim, trong đó có 1 loài bị đe dọa toàn cầu là vạc hoa (Nguy cấp) và 2 loài gần bị đe dọa là hồng hoàng và diều cá đầu xám. Ba Bể còn là khu vực quan trọng đối với bảo tồn loài vạc hoa tại Việt Nam.
VQG Tràm Chim được gọi là đồng tháp mười thu nhỏ
Năm 2012, VQG Tràm Chim (tỉnh Đồng Tháp) đã trở thành khu Ramsar thứ 2.000 trên thế giới và thứ 4 của Việt Nam. VQG Tràm Chim là khu vực có hệ sinh thái độc đáo, có tầm quan trọng đặc biệt cho các vùng lân cận, các hệ sinh thái ngập nước, có nhiều nhóm loài đặc hữu quý hiếm, nhóm loài di cư đa dạng.
Sếu đầu đỏ, loài biểu tượng của VQG Tràm Chim
VQG Tràm Chim, nằm cách dòng chính của Sông Mê Công 19 km, là một trong những mảnh sót lại lớn nhất của vùng Đồng Tháp Mười nguyên thủy rộng 700.000 ha trước đây bao gồm một phần của các tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang và Long An. Hàng năm, VQG ngập nước trong khoảng 6 tháng với độ sâu tối đa là 2,5 m. Thảm thực vật của Tràm Chim chủ yếu là đồng cỏ ngập theo mùa và các mảng rừng tràm. Nhiều quần thể lớn các loài chim nước có mặt nơi đây, đặc biệt là vào mùa đông. Sếu đầu đỏ, loài biểu tượng của VQG Tràm Chim, là loài được xếp hạng sẽ nguy cấp (VU) ở cấp toàn cầu và cấp quốc gia. Hệ chim ở khu vực này phong phú nhất so với các khu bảo vệ khác ở ĐBSCL. Nơi đây có 231 loài chim, 191 loài thực vật, 150 loài cá bản địa, chiếm khoảng 1/3 số loài cá ở ĐBSCL. Có 7 loài chim phụ thuộc hoàn toàn vào sinh cảnh bên trong Tràm Chim bao gồm: công đất, chim mèo, rẽ giun, cò ngàng nhỡ, ưng xám, bói cá nhỏ và cun cút. Đây cũng là một trong số ít vùng ở Đồng Tháp Mười có diện tích lúa ma còn sống sót lớn nhất. Ngoài ra, Tràm Chim còn được Birdlife xếp là một trong 8 vùng chim quan trọng ở vùng nước ngọt của Việt Nam (tất cả đều nằm ở ĐBSCL), các vùng đại diện cho những hệ sinh thái tự nhiên quan trọng nhất của ĐBSCL.
VQG Mũi Cà Mau - nơi có 3 mặt giáp với biển
Cũng trong năm 2012, VQG Mũi Cà Mau (tỉnh Cà Mau) được công nhận là khu Ramsar thứ 2.088 của thế giới và là thứ 5 của Việt Nam. VQG Mũi Cà Mau được đánh giá có hệ sinh thái độc đáo, có tầm quan trọng đặc biệt cho các vùng lân cận.
VQG Mũi Cà Mau có diện tích bãi bùn ngập triều lớn và rừng ngập mặn
VQG Mũi Cà Mau có diện tích bãi bùn ngập triều lớn và rừng ngập mặn với các loài chiếm ưu thế như: mắm; đước; trang. Một số loài khác xuất hiện rải rác trong khu vực như vẹt và bần. Trong VQG còn lại một số cây gỗ lớn trên 20 năm tuổi và tồn tại một số diện tích nhỏ rừng đước già. Ngoài ra, đây là khu vực duy nhất ở Việt Nam có 3 mặt giáp với biển, chịu tác động của hai chế độ thủy triều (nhật triều phía Tây và bán nhật triều ở phía Đông). Phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông và Đông Nam giáp với biển Đông, phía Tây giáp với vịnh Thái Lan và là cửa ngõ phía Đông Nam của Việt Nam. Do nằm ở vị trí địa lý đặc biệt này, hệ sinh thái biển và ven biển ở VQG Mũi Cà Mau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cung cấp các điều kiện phù hợp cho sự di cư, sinh trưởng và sinh sản của một số loài thủy sản; điểm dừng chân và trú đông rất quan trọng cho nhiều loài chim nước di cư. Năm 2010, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đã xác định được nhiều loài đang bị đe dọa ở cấp độ toàn cầu, trong đó có ghi nhận về các loài linh trưởng, chim, rái cá, bò sát và cá. VQG Mũi Cà Mau có giá trị đặc biệt trong việc gìn giữ đa dạng sinh học của vùng ĐBSCL, đóng vai trò tích cực đối với bảo tồn đa dạng sinh học và môi trường của tỉnh Cà Mau cũng như các vùng lân cận.
VQG Côn Đảo - Khu Ramsar biển đầu tiên của Việt Nam
Năm 2013, VQG Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu) được công nhận là lhu Ramsar thứ 2.203 của thế giới và thứ 6 của Việt Nam. VQG Côn Đảo nằm ở trung tâm quần đảo Côn Đảo, nằm ngoài khơi cách bờ biển khoảng 80 km. Hiện nay, đã ghi nhận 1.077 loài thực vật có mạch, 29 loài thú, 85 loài chim và 46 loài bò sát, ếch nhái tại VQG. Mặc dù số lượng loài tương đối thấp nhưng mật độ cá thể lại thường cao, một số loài và phân loài đặc hữu cho vùng như sóc đen Côn Sơn. Khu hệ chim Côn Đảo còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Tuy nhiên, có nhiều loài chim ở Côn Đảo không tìm thấy ở bất kỳ một nơi nào khác ở Việt Nam như loài Bb câu nicoba, chim nhiệt đới, chim điên mặt xanh và gầm gì trắng.
Côn Đảo là khu Ramsar biển đầu tiên của Việt Nam
Hệ sinh thái biển VQG có rừng ngập mặn, các rạn san hô và cỏ biển. Các cuộc điều tra của Viện Hải dương học Nha Trang đã ghi nhận có 1.323 loài động thực vật biển, trong đó có 44 loài ghi trong Sách đỏ Việt Nam. Với 153 loài nhuyễn thể ghi nhận được, chứng tỏ sự đa dạng của nhóm nhuyễn thể tại đây cao hơn bất kỳ mọi đảo khơi khác ở Việt Nam. Côn Đảo có khoảng 500 ha cỏ biển, nơi tồn tại quần thể nhỏ của loài thú biển bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu là loài bò biển Dugong, ước tính số lượng có khoảng 12 cá thể.
VQG Côn Đảo là nơi làm tổ quan trọng của loài Vích và Đồi mồi, hai loài rùa biển đang bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu. Hàng năm, khu vực đã ghi nhận được hơn 250 -đến 350 cá thể cái đến làm tổ sinh sản tại 14 địa điểm trong VQG với tổng số tổ lên đến hơn 1.000 tổ. Gần 80% các tổ được làm trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 9. Ngoài ra, một số các loài động vật biển có vú cũng đã được ghi nhận tại VQG Côn Đảo. VQG Côn Đảo đáp ứng đầy đủ 5/9 tiêu chí do Công ước Ramsar đề ra.
N.Hằng
Nguồn: Tạp chí Môi trường, số 1+2/2015