Banner trang chủ
Thứ Sáu, ngày 01/11/2024

Tạo lập hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường đồng bộ, thống nhất, đi vào cuộc sống

01/02/2024

    Năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo động lực hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) 5 năm giai đoạn 2021 - 2025. Tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thách thức, khó khăn mới xuất hiện gay gắt, nặng nề hơn so với dự báo... Trước bối cảnh trên, thực hiện phương châm điều hành của Chính phủ “Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả”, ngành TN&MT đã bám sát tình hình thực tiễn, phát huy tinh thần sáng tạo, chủ động trong triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; kịp thời phản ứng và tìm giải pháp phù hợp để giải quyết, khắc phục tồn tại, hạn chế, đảm bảo quốc phòng, an ninh có liên quan đến công tác quản lý nhà nước của ngành. Trong đó, đặt trọng tâm vào đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật; lập và triển khai công tác quy hoạch; tiếp tục đề xuất các giải pháp khơi thông điểm nghẽn… góp phần quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phục vụ quá trình phục hồi, phát triển KT - XH đất nước, nhiều kết quả quan trọng được lãnh đạo Đảng, Nhà nước ghi nhận, nhân dân đánh giá cao.

    1. Chủ động, linh hoạt, đón đầu các cơ hội từ xu thế phát triển

    1.1. Trong công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật:

    Toàn ngành đã và đang tích cực tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT; phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững (PTBV) kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; triển khai các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương về nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước ở các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của ngành. Đồng thời, trên cơ sở tổng kết thi hành pháp luật, toàn ngành đã tập trung cao độ xây dựng, hoàn thiện các Dự án: Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Tài nguyên nước (TNN) (sửa đổi), Luật Địa chất và Khoáng sản (sửa đổi). Đồng thời với quá trình xây dựng các Dự án Luật sửa đổi, Bộ đẩy mạnh chỉ đạo xây dựng các nghị định hướng dẫn để bảo đảm hiệu lực thi hành đồng bộ, thống nhất với thời hiệu của các Luật sau khi được ban hành. Tại Kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội Khóa XV đã thông qua Luật TNN (sửa đổi), đánh dấu bước tiến rất lớn về tư duy, cách tiếp cận, thay đổi phương thức quản trị và bảo đảm TNN được quản lý như tài sản công, thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện là chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013. Tiếp đó, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội khóa XV, ngày 18/1/2024, Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) chính thức được Quốc hội thông qua. Việc sửa đổi Luật Đất đai được nhận định là một trong những điểm nhấn nổi bật, là sự kiện sinh hoạt chính trị quan trọng, toàn ngành TN&MT đã tổ chức tốt việc lấy ý kiến nhân dân với đa dạng phương thức, thu hút hơn 12 triệu lượt ý kiến góp ý. Quá trình xây dựng Luật, Bộ TN&MT với vai trò chủ trì đã thể hiện quyết tâm, nỗ lực cao, bám sát thực tiễn, kiên trì nghiên cứu, tiếp thu, giải trình để tham mưu cho Chính phủ giải quyết khó khăn, thể chế hóa các chủ trương của Đảng mà trọng tâm là Nghị quyết số 18-NQ/TW, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Riêng Dự án Luật Địa chất và Khoáng sản (sửa đổi) đang tiếp tục được hoàn thiện để bảo đảm trình Chính phủ trình Quốc hội trong năm 2024. Ngoài ra, trong năm 2023, Bộ TN&MT đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 3 nghị định, 3 quyết định; ban hành theo thẩm quyền 19 thông tư, góp phần giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn đặt ra từ thực tiễn, rút ngắn thủ tục hành chính (TTHC), thúc đẩy phát triển KT - XH và tăng cường kỷ cương trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật.

    Mặt khác, với tinh thần cầu thị, luôn hướng về địa phương, cơ sở, Bộ TN&MT đã chủ động cùng các địa phương nắm bắt vướng mắc trong thi hành pháp luật, từ đó đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành các văn bản như: Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2023 quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT; Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 44/2012/NĐ-CP ngày 15/5/2012 quy định phương pháp định giá đất; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định chi tiết Luật Khoáng sản; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/2/2021 quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển.

    1.2. Đẩy mạnh cải cách TTHC, hiện đại hóa nền hành chính, chuyển đổi số:

    Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025, Bộ TN&MT đã đề xuất, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ. Theo đó, trong tổng số 178 TTHC được rà soát, Bộ đã thực hiện bãi bỏ, đơn giản hóa 153/178 TTHC (đạt 85%). Chỉ số cải cách hành chính năm 2022 (Par-index) đạt 86,59/100 điểm, xếp thứ 6/17 các Bộ, cơ quan ngang Bộ, tiếp tục duy trì thứ hạng so với năm 2021; chỉ số chuyển đổi số (CĐS) năm 2023 đứng thứ 3/17 Bộ, ngành (có dịch vụ công). Đồng thời, vận hành các hệ thống thông tin Chính phủ điện tử, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, quản trị của Bộ, của ngành trên môi trường điện tử, trực tuyến; nền tảng kết nối, tích hợp dữ liệu đã tích hợp với nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu quốc gia, với 240 dịch vụ, 9.941.161 giao dịch; số lượng văn bản điện tử (ký số) gửi/nhận qua Trục liên thông văn bản quốc gia và nội bộ là 81.355 văn bản.

    1.3. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư, khiếu nại:

    Trong năm 2023, toàn ngành đã tiến hành 350 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 773 tổ chức, cá nhân; xử phạt vi phạm hành chính 73 tổ chức, cá nhân với số tiền 53 tỷ 946 triệu đồng; kiến nghị truy thu nộp ngân sách nhà nước 5.976,7 triệu đồng; kiến nghị thu hồi 5.647 ha đất. Cùng với đó, thực hiện tốt công tác tiếp, giải quyết khiếu nại, kiến nghị của nhân dân, với 1.589 lượt tiếp, 1.783 công dân, giải quyết 4.123/6350 lượt đơn thư khiếu nại, tố cáo, đảm bảo ổn định trật tự, chính trị, xã hội ở các địa phương.

    1.4. Chú trọng tổ chức thực thi các quy định của pháp luật về BVMT:

    Triển khai thực hiện giám sát, kiểm soát các nguồn thải từ hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, khu vực tập trung nhiều nguồn thải tại các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN), làng nghề, lưu vực sông… trong đó, tập trung giám sát các cơ sở, khu vực có hoạt động sản xuất tiềm ẩn nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường (ÔNMT); hướng dẫn, đôn đốc, yêu cầu chủ đầu tư các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, CCN xây dựng, vận hành hệ thống xử lý nước thải (XLNT) tập trung, đảm bảo 92% KCN, khu chế xuất có hệ thống XLNT tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; quản lý tốt chất thải công nhiệp và chất thải nguy hại thông qua việc kiểm soát chặt chẽ nguồn phát sinh, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, xử lý.

    Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn (CTR) đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 1/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về giải pháp cấp bách tăng cường quản lý CTR; đôn đốc các địa phương bảo đảm tỷ lệ rác thải sinh hoạt được thu gom, xử lý ở khu vực đô thị đạt 95%, trong đó 40% được xử lý theo mô hình đốt rác phát điện, tái chế thay cho hình thức chôn lấp; hướng dẫn kỹ thuật về phân loại CTR sinh hoạt. Ban hành tiêu chí Nhãn sinh thái Việt Nam đối với bao bì nhựa thân thiện với môi trường; thực hiện quan trắc môi trường (QTMT) thuộc Chương trình QTMT quốc gia và theo Kế hoạch được phê duyệt; kết nối, tiếp nhận, xử lý dữ liệu quan trắc tự động liên tục từ các địa phương, doanh nghiệp truyền về. Tiếp tục phối hợp với các địa phương trong việc xử lý điểm nóng về ÔNMT; duy trì và tăng cường hiệu quả Đường dây nóng tiếp nhận, xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân về ÔNMT.

    1.5. Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi xanh, giảm phát thải, chủ động ứng phó với BĐKH:

    Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ TN&MT luôn chủ động bám sát Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương từng bước xây dựng, hoàn thiện hệ thống hạ tầng thích ứng với BĐKH. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án triển khai Tuyên bố chính trị thiết lập 26 quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (Tuyên bố JETP); Đề án tổ chức Phiên họp lần thứ 8 của Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Hà Lan về thích ứng với BĐKH và quản lý TNN. Triển khai thực hiện Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030; Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP26. Tích cực làm việc với Liên minh tài chính Glasgow vì mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (GFANZ) và các định chế tài chính trong, ngoài nước; công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố JETP tại COP28 cùng với Nhóm các đối tác quốc tế… thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện các cam kết, chung tay cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với BĐKH.

Hội nghị tổng kết công tác năm 2023 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2024

của ngành TN&MT, diễn ra ngày 31/12/2023 tại Hà Nội

    Đối với nhiệm vụ thực hiện mục tiêu Công ước khung của Liên hợp quốc (LHQ) về BĐKH (UNFCCC) và Thỏa thuận Paris, Bộ đã phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai xây dựng Dự thảo Thông báo quốc gia lần thứ 4 và Báo cáo minh bạch 2 năm/lần lần thứ nhất của Việt Nam để gửi Ban Thư ký Công ước khung của LHQ; phối hợp với Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) hoàn thiện Hệ thống báo cáo trực tuyến giám sát, đánh giá hoạt động thích ứng với BĐKH cấp quốc gia; phối hợp với các cơ quan liên quan và Ngân hàng Thế giới (WB) hoàn thiện Văn kiện Dự án triển khai thực hiện thị trường các-bon tại Việt Nam để thực hiện trong giai đoạn 2024 - 2028. Tích cực làm việc với WB, Chương trình môi trường LHQ (UNEP) và các chuyên gia về nội dung xây dựng Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HFC… Ngoài ra, Bộ TN&MT còn huy động các nguồn lực ứng phó BĐKH, nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long; chú trọng BVMT, thúc đẩy trồng rừng, lần đầu tiên bán chứng chỉ các-bon và phát hành trái phiếu xanh; triển khai quyết liệt các chương trình hành động ứng phó với BĐKH, giảm phát thải, chuyển đổi năng lượng, thể hiện trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

    2. Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2024

    Năm 2024 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, tạo động lực, tiền đề thực hiện thành công các mục tiêu Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021 - 2025. Trong khi đó, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng xu hướng PTBV mang đến nhiều cơ hội, nhưng kèm theo đó là thách thức đan xen, tác động mạnh mẽ trên nhiều phương diện… Bên cạnh yếu tố con người và truyền thống lịch sử - văn hóa, thiên nhiên với các nguồn tài nguyên được đánh giá là một trong những nguồn lực bên trong, mang ý nghĩa cơ bản, chiến lược lâu dài, quyết định để phát triển đất nước, vì vậy, để phát huy hiệu quả công tác quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, BVMT, chủ động ứng phó với BĐKH, năm 2024, ngành TN&MT sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

    (1) Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật; đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, quy định kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp, từ đó tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TN&MT;

    (2) Xây dựng, triển khai kế hoạch ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định, hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đất đai (sửa đổi), Luật TNN (sửa đổi); tổng hợp nhu cầu sử dụng đất của các địa phương để rà soát, điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm (2021 - 2025); giao chỉ tiêu, xác định nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, trách nhiệm cụ thể cho từng đơn vị, cá nhân trong kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 5/1/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KT - XH và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 5/1/2024 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024;

    (3) Tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế gắn với BVMT, trong đó tập trung nguồn lực thực hiện Quy hoạch BVMT quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch tổng thể QTMT quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông; Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất và khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia ngay sau khi được ban hành. Hướng dẫn việc xây dựng nội dung BVMT trong quy hoạch tỉnh, quy hoạch vùng; xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia; rà soát, hoàn thiện các quy định, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đánh giá môi trường chiến lược để hạn chế tối đa những định hướng phát triển gây hại đến môi trường trong các chiến lược, quy hoạch. Đồng thời, hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ: Đề án tăng cường năng lực quản lý CTR sinh hoạt tại Việt Nam; Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành môi trường đến năm 2030; Tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; Dự thảo Quy chế quản lý, sử dụng tiền đóng góp tài chính của nhà sản xuất, nhập khẩu vào Quỹ BVMT Việt Nam để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì và xử lý chất thải. Thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về giải pháp cấp bách tăng cường quản lý CTR; Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2021 - 2025; Ứng dụng công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong quan trắc, giám sát ô nhiễm môi trường không khí từ các nguồn xuyên biên giới …;

    (4) Tiếp tục triển khai thi hành các quy định của Luật BVMT về ứng phó với BĐKH; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật). Tiếp tục triển khai các chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động, nhiệm vụ, giải pháp ứng phó với BĐKH tại Đề án triển khai kết quả COP26, Chiến lược quốc gia về BĐKH, Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê tan. Hoàn thiện các quy định về quản lý tín chỉ các-bon tại Việt Nam, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước và kết nối với thị trường các-bon khu vực cũng như thế giới. Tập trung thực hiện Kế hoạch huy động nguồn lực triển khai Tuyên bố JETP; phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức quốc tế, cơ quan liên quan triển khai cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 và phát huy, tổng hợp nguồn lực, tăng cường hợp tác quốc tế để tiếp tục học hỏi kinh nghiệm, tận dụng nguồn lực trong triển khai các hoạt động ứng phó với BĐKH;

    (5) Tổng kết việc thi hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo để trình Chính phủ hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (sửa đổi); sửa đổi, bổ sung một số nghị định thuộc lĩnh vực biển và hải đảo cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Tập trung thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược PTBV kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó tập trung hoàn thiện, trình Quốc hội ban hành Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; ưu tiên bố trí các nguồn lực, đẩy nhanh thực hiện các dự án trọng điểm về ứng phó với BĐKH, phòng, chống thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún, sạt lở bờ sông, bờ biển, sạt lở đất, nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven biển, khu vực Bắc Trung bộ, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc. Tổ chức triển khai hiệu quả Quy hoạch BVMT thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050; xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, đánh giá tác động môi trường để tích hợp vào cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia; chỉ đạo, hướng dẫn tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các địa phương trong việc giao khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển và công tác nhận chìm ở biển, đảm bảo đúng quy định;

    (6) Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về TN&MT đối với UBND cấp tỉnh, cấp huyện; việc chấp hành pháp luật về đất đai, BVMT, TNN đối với các tổ chức, dự án sử dụng đất, dự án phát triển nhà ở, khu đô thị, khu dân cư…; tiến hành thanh tra, kiểm tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật về TN&MT; thường xuyên tổ chức giám sát công tác BVMT đối với cơ sở công suất lớn, tiềm ẩn nguy cơ gây ÔNMT cao và chủ động rà soát, kịp thời nắm bắt các vấn đề, lĩnh vực hoạt động có nguy cơ xảy ra ÔNMT;

    (7) Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng trưởng xanh, CĐS; xây dựng các văn bản, quy định kỹ thuật, tạo môi trường cơ sở pháp lý thuận lợi, thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, CĐS, phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số ngành TN&MT; tạo lập, hoàn thiện thể chế, chính sách về môi trường kinh doanh để thích ứng linh hoạt, phù hợp với xu thế phát triển mới (đổi mới sáng tạo, CĐS, chuyển đổi xanh...);

    (8) Xác định cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên, nỗ lực thực chất để tháo gỡ khó khăn, khơi thông điểm nghẽn về thể chế pháp lý và thực thi cho doanh nghiệp; kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, sản xuất, kinh doanh gắn với đổi mới sáng tạo, CĐS, chuyển đổi xanh, hướng tới mục tiêu PTBV…

Bùi Hằng

Ý kiến của bạn