Hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo vệ môi trường
15/09/2015
Tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ TN&MT Bùi Cách Tuyến phát biểu, từ năm 2005 - 2013 là giai đoạn thành công trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT, đặc biệt là Luật Đa dạng sinh học, Luật Thuế Tài nguyên, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả… Cùng với đó, quá trình xây dựng và ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật đã tạo nên một hệ thống pháp luật về BVMT toàn diện, góp phần thúc đẩy công tác BVMT trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, công tác BVMT trong quản lý vùng, lĩnh vực liên ngành cũng được chú trọng thông qua việc phê duyệt hàng loạt các quy hoạch, đề án, chương trình như: Đề án BVMT lưu vực sông Cầu, lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy, lưu vực hệ thống sông Đồng Nai; Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, hải đảo Việt Nam. Nhìn chung, hệ thống chính sách pháp luật về BVMT tương đối đầy đủ và đồng bộ.
Tuy nhiên, qua 8 năm triển khai, một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật BVMT 2005 vẫn còn bất cập, đòi hỏi phải có những điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Từ đó, Quốc hội đã lập kế hoạch xây dựng Luật BVMT (sửa đổi), nhằm từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý về BVMT, phù hợp với điều kiện phát triển trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở đó, Bộ TN&MT đã đề xuất 9 giải pháp nhằm BVMT, phục vụ cho phát triển bền vững, cụ thể: Lập quy hoạch môi trường làm căn cứ để lồng ghép các nội dung BVMT trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn các tác động xấu tới môi trường; Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường; Cam kết BVMT và kế hoạh BVMT đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát sinh chất thải sản xuất; Tăng cường bảo vệ các thành phần môi trường (nước sông, đất và không khí); Tăng cường BVMT làng nghề; Tăng cường quản lý chất thải; Nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước về BVMT; Xác định quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư; Chú trọng nguồn lực cho BVMT.
B.H
Nguồn: Tạp chí MT, số 8/2013