04/10/2022
Ngày 29/9/2022, tại Hà Nội, với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội, Tổ chức nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Na Uy (SINTEF) phối hợp với Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) đã tổ chức Hội thảo Đồng xử lý các nhiên liệu thay thế và nguyên liệu thô trong ngành xi măng tại Việt Nam. Hội thảo nhằm mục đích chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về đồng xử lý chất thải trong ngành công nghiệp xi măng, cũng như các kết quả của cuộc trình diễn tại nhà máy INSEE ở Hòn Chông, Kiên Giang, từ đó thảo luận về tiềm năng đồng xử lý trong tương lai của ngành xi măng Việt Nam.
Toàn cảnh Hội thảo
Tham dự Hội thảo có Phó Đại sứ Na Uy tại Việt Nam bà Mette Møglestue; Tiến sĩ Kåre Helge Karstensen, Chuyên gia cao cấp và Quản lý Chương trình của SINTEF; ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch VNCA; ông Bruno Fux, Giám đốc Ecocycle & Bền vững của INSEE Ecocycle, và hơn 130 đại biểu đại diện cho các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như UNDP Việt Nam, GIZ, UNIDO Việt Nam, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các ban ngành địa phương và các thành viên của VNCA, các trường đại học, một số hiệp hội trong nước như Hiệp hội Da giày và Túi xách Việt Nam, Hiệp hội Nhựa Việt Nam…, các công ty tư nhân hoạt động trong ngành xi măng, các lĩnh vực liên quan, các tổ chức phi chính phủ về môi trường và các tổ chức khác.
Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp khoảng 6,5-7% vào GDP của Việt Nam. Sản xuất xi măng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng sản lượng cũng như giá trị của ngành công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam hiện nay. Hiện nay, nước ta có 86 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất thiết kế 106,34 triệu tấn/năm. Sản xuất xi măng tiêu tốn nhiều nhiên liệu, trung bình 110 -150 kg than/1 tấn clinker, tuỳ loại than, quy mô và dây chuyền công nghệ. Hiện một số nhà máy xi măng đã sử dụng nhiên liệu thay thế như: Insee, VICEM Bút Sơn, Lam Thạch... Tính trong phạm vi toàn ngành, lượng sử dụng nhiên liệu thay thế còn thấp, chủng loại chất thải được sử dụng làm nhiên liệu thay thế còn hạn chế. Tuy nhiên, sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế là xu hướng chung của ngành xi măng toàn cầu. Việc sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế không chỉ góp phần giảm lượng dùng tài nguyên thiên nhiên, mà còn góp phần tái chế, tái sử dụng phế thải của các ngành công nghiệp khác và rác thải sinh hoạt.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Đại sứ Na Uy Mette Møglestue cho biết: “Na Uy và Việt Nam, cũng như các thành viên tham gia Thỏa thuận Paris, đều cam kết mạnh mẽ trong việc chống biến đổi khí hậu và thực hiện các Đóng góp Quốc gia tự quyết định (NDC) nhằm giảm phát thải Khí nhà kính (GhG). Để đạt mục tiêu này cần sự tham gia của nhiều lĩnh vực. Chính phủ Na Uy đánh giá cao vai trò quan trọng của các viện nghiên cứu, khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các ngành công nghiệp trong quá trình này. Các kết quả nghiên cứu của SINTEF trong việc sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế làm nhiên liệu thay thế cho lò nung xi măng đã được chứng minh thành công và có thể được nhân rộng ở Việt Nam. Thông qua Dự án OPTOCE do Chính phủ Na Uy tài trợ và đang được thực hiện tại 5 quốc gia Châu Á trong đó có Việt Nam, chúng tôi hy vọng Na Uy có thể giúp ngành xi măng Việt Nam nâng cao năng lực xử lý chất thải nhựa không thể tái chế và góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam”.
Theo Tiến sĩ Kåre Helge Karstensen của SINTEF, người đứng đầu Dự án OPTOCE cho biết: “Ngành công nghiệp xi măng hiện đang sử dụng khối lượng lớn than và các nguyên liệu thô khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng nhiên liệu này này bằng chất thải nhựa không thể tái chế. Theo kết quả nghiên cứu của SINTEF, việc đồng xử lý chất thải nhựa không thể tái chế làm chất thay thế nhiên liệu trong các lò nung xi măng không làm tăng phát thải dioxin trong khi vẫn tuân thủ các giá trị giới hạn quốc tế nghiêm ngặt nhất. Việc trình diễn thành công phương thức này tại nhà máy INSEE Việt Nam gửi đi một thông điệp hy vọng về tương lai của ngành xi măng Việt Nam. Đồng xử lý trong lò nung xi măng có thể cải thiện việc quản lý chất thải nhựa không thể tái chế ở Việt Nam. Giải pháp này làm giảm tiêu thụ than trong ngành công nghiệp xi măng đồng thời giảm nhu cầu xây dựng các lò đốt phát điện đắt tiền (biến chất thải thành năng lượng). Quan trọng hơn, ngành công nghiệp xi măng nói chung có thể đóng một vai trò quan trọng trong giảm lượng phát thải GhG và ngăn chặn chất thải nhựa đổ vào đại dương”.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số thách thức trong quá trình thực hiện như các doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn vốn đầu tư cho đồng xử lý; có rất ít hoặc chưa có đơn vị chuyên thực hiện việc thu gom, xử lý sơ bộ chất thải và cung cấp đến nhà máy xi măng; thủ tục pháp lý còn bất cập trong việc xác nhận các nhà máy xi măng áp dụng đồng xử lý là cơ sở xử lý chất thải; thiếu các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các doanh nghiệp xi măng áp dụng phương pháp này cũng như các doanh nghiệp thu gom, sơ chế chất thải trong chuỗi cung ứng liên quan.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã trao đổi và thảo luận về tiềm năng, thuận lợi và khó khăn khi áp dụng đồng xử lý chất thải tại Việt Nam; hoàn thiện hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi để ngành công nghiệp xi măng trở thành một đối tác quan trọng góp phần tăng cường quản lý tổng hợp chất thải rắn; nguồn chất thải rắn phù hợp và ổn định cung cấp cho quá trình đồng xử lý cần được quy hoạch, thu gom, vận chuyển và lưu trữ phù hợp trong điều kiện của Việt Nam; các cơ chế hỗ trợ về mặt khoa học, kỹ thuật và nguồn nhân lực, vật lực cần thiết để các công ty xi măng để sớm triển khai áp dụng đồng xử lý tại Việt Nam.
Nguyễn Hằng