Quốc hội thông qua Luật Tài nguyên, môi trường Biển và hải đảo
15/09/2015
Ngày 25/6/2015, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Tài nguyên, môi trường Biển và hải đảo với 91,5% đại biểu Quốc hội tán thành.
Trước đó, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo giải trình việc tiếp thu, chỉnh sửa Dự thảo Luật trình Quốc hội xem xét, thông qua. Theo đó, Dự thảo Luật đã chỉnh sửa một số nội dung trên cơ sở những ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội như bổ sung chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, BVMT biển và hải đảo; Các nguyên tắc: Quản lý tổng hợp phải dựa trên tiếp cận hệ sinh thái; Đảm đảm quyền tiếp cận biển của cộng đồng; Bảo đảm ưu tiên cho lợi ích lâu dài và lợi ích của cộng đồng trong phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ...
Đối với kiến nghị bổ sung quy định về phòng ngừa sự cố tràn dầu trên biển, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc phòng ngừa, khắc phục, xử lý sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại trên biển được thực hiện theo quy định của pháp luật về BVMT và pháp luật khác có liên quan. Vì vậy, Luật chỉ quy định cụ thể một số vấn đề đặc thù trong ứng phó với sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại trên biển.
Liên quan đến quy định về trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên, BVMT biển và hải đảo, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ, trách nhiệm cụ thể của các Bộ, ngành trong quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên biển và hải đảo đối với các loại tài nguyên cụ thể đã được quy định và thực hiện theo pháp luật chuyên ngành như thủy sản, khoáng sản, dầu khí, du lịch...; Ngoài ra, trách nhiệm BVMT biển cũng được quy định trong Luật BVMT. Do đó, Luật này chỉ tập trung quy định về các công cụ, cơ chế, chính sách điều phối, phối hợp liên ngành, liên vùng; Giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên, BVMT biển và hải đảo và Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này.
Luật Tài nguyên, môi trường Biển và hải đảo được Quốc hội thông qua gồm 10 Chương, 81 Điều
Luật quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên, BVMT biển và hải đảo; Quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý tổng hợp tài nguyên, BVMT biển và hải đảo Việt Nam. Hoạt động BVMT, quản lý, khai thác, sử dụng các loại tài nguyên biển và hải đảo thực hiện theo quy định của các luật có liên quan và bảo đảm phù hợp với các quy định tại Luật này.
Luật xác định, kể từ thời điểm được công bố, giữ nguyên hiện trạng, không được phép đầu tư, xây dựng mới công trình trong phạm vi 100 m tính từ đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm về phía đất liền hoặc về phía trong đảo do UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương có biển xác định theo hướng dẫn của Bộ TN&MT cho đến khi hành lang bảo vệ bờ biển được thiết lập theo quy định của Luật này (trừ một số trường hợp xây dựng công trình mới phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai, sạt lở bờ biển, ứng phó biến đổi khí hậu; Dự án phục vụ lợi ích quốc gia, cộng đồng hoặc dự án đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư hay cấp giấy phép đầu tư trước thời điểm Luật được công bố).
UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương có biển có trách nhiệm thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển thuộc phạm vi quản lý. Các quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên của ngành, địa phương, quy hoạch phát triển ngành, địa phương được tiếp tục thực hiện cho đến khi rà soát, điều chỉnh lại; Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ đã được phê duyệt.
Luật Tài nguyên, môi trường Biển và hải đảo có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2016, gồm 10 Chương, 81 Điều.
M.V