Banner trang chủ
Thứ Ba, ngày 23/12/2025

Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong chính sách ưu đãi về tài chính đối với phát triển khu công nghiệp sinh thái

22/12/2025

    Khái niệm “khu công nghiệp sinh thái” (KCNST) xuất hiện từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX trong bối cảnh toàn cầu ngày càng quan tâm đến phát triển bền vững và quản trị tài nguyên trong công nghiệp. KCNST được hiểu là mô hình tổ chức khu công nghiệp, trong đó các doanh nghiệp tham gia sản xuất sạch hơn, sử dụng tài nguyên - năng lượng hiệu quả nhằm giảm thiểu chất thải và tối ưu chi phí. Tại Việt Nam, mặc dù KCNST đang trong giai đoạn thí điểm, các điểm nghẽn về tài chính vẫn là trở ngại lớn cho sự phát triển của mô hình này. Doanh nghiệp thiếu động lực do không có cơ chế đặc thù và các ưu đãi tài chính hấp dẫn. Hơn nữa, việc thiếu các quỹ tài chính chuyên biệt dành riêng cho KCNST, cùng với khó khăn trong tiếp cận vốn ưu đãi, khiến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, gặp nhiều trở ngại. Chính sách hiện tại về lãi suất, thuế và thời hạn vay cũng chưa đủ hấp dẫn để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình chuyển đổi. Bài học kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy việc áp dụng chính sách tài chính hiệu quả là yếu tố quyết định trong phát triển KCNST, điều này rất cần thiết cho Việt Nam trong quá trình triển khai xây dựng một hệ thống chính sách tài chính mạnh mẽ hơn, giải quyết những điểm nghẽn hiện tại và thúc đẩy sự phát triển bền vững của KCNST.

    Chính sách tài chính của Hàn Quốc đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy thành công của các khu công nghiệp sinh thái

    Hàn Quốc từng là một trong những nước nghèo nhất thế giới sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Tuy nhiên, với chính sách cải cách và sự hỗ trợ từ chính phủ, Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển mình, trở thành một quốc gia công nghiệp hóa. Sự phát triển nhanh chóng của Hàn Quốc từ thập niên 1960 được gọi là "Kỳ tích sông Hán". Hiện tại, Hàn Quốc là nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới tính theo GDP danh nghĩa và đứng thứ 4 châu Á, chỉ sau Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ. Đây cũng là một trong những quốc gia tiên phong tại châu Á trong việc phát triển KCNST, nhằm giải quyết các vấn đề môi trường và thúc đẩy tăng trưởng xanh.

    Hàn Quốc đã lựa chọn một chiến lược ba giai đoạn kéo dài từ năm 2005 đến năm 2019, từ thử nghiệm đến mở rộng và cuối cùng là chuẩn hóa - thể chế hóa mô hình KCNST trên phạm vi toàn quốc. Năm 2005, Hàn Quốc chính thức khởi động Chương trình Phát triển KCNST Quốc gia với mục tiêu xây dựng mô hình công nghiệp bền vững. Giai đoạn đầu tiên (2005-2010) tập trung vào việc thí điểm tại 5 khu công nghiệp là Ulsan, Pohang, Yeosu, Chungbuk và Gyeonggi. Việc lựa chọn các địa điểm này không ngẫu nhiên, mà dựa trên các tiêu chí như mức độ tập trung công nghiệp cao, tiềm năng cộng sinh và sẵn có hạ tầng dùng chung. Giai đoạn thứ hai (2010-2014) mở rộng chương trình ra 46 khu công nghiệp và giai đoạn thứ ba (2015-2019) hướng tới việc xây dựng mạng lưới KCNST quốc gia với 300 mạng lưới công nghiệp sinh thái, tiết kiệm tài nguyên trị giá 500 tỷ KRW và giảm 2 triệu tấn khí nhà kính hàng năm [2].

Hình 1. Quy hoạch tổng thể chương trình khu công nghiệp sinh thái của Hàn Quốc. Nguồn: [3]

    Cụ thể, Chương trình phát triển KCNST quy mô quốc gia được khởi động năm 2005 do Trung tâm Sản xuất sạch hơn Hàn Quốc (KNCPC) xây dựng và sau đó được chuyển giao cho Tập đoàn Công nghiệp Hàn Quốc (KICOX) để điều phối thực hiện trên quy mô toàn quốc. Theo đó, KNCPC đã khởi động chương trình KCNST theo mô hình SWOT, phân tích tình trạng ngành công nghiệp và chia dự án thành ba giai đoạn: thử nghiệm, mở rộng và hoàn thiện. KCNST được triển khai tại 5 khu công nghiệp lớn với đặc điểm cơ cấu ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, KNCPC gặp khó khăn do thiếu ngân sách và dự án tập trung quá nhiều vào nghiên cứu mà thiếu tính thực tiễn, dẫn đến việc không thu hút được doanh nghiệp tham gia. KICOX đã thay thế KNCPC, tích hợp các chính sách công nghiệp và chú trọng vào phát triển các dự án cộng sinh thực tiễn hơn, nhằm thúc đẩy mô hình KCNST hiệu quả hơn. Kết quả, Chương trình KCNST của Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chuyển đổi 51 KCN thông thường sang hoạt động theo mô hình KCNST tạo ra lợi ích kinh tế quy đổi khoảng 1,3 tỷ USD và hoàn thành thực hiện chuyển đổi 151 KCN sinh thái vào năm 2020. Hệ thống thể chế, chính sách của Hàn Quốc tạo một nền tảng vững chắc cho sự phát triển của chương trình KCN sinh thái quốc gia gồm: Khuyến khích phát triển bền vững, chính sách công nghiệp theo hướng thân thiện với môi trường và chính sách năng lượng tái tạo, trong đó quy định về sản xuất sạch hơn và một hệ thống quản lý môi trường (EMS) đáp ứng tiêu chuẩn ISO 14001 đóng vai trò nền tảng. Đồng thời, việc phát triển các chiến lược cộng sinh công nghiệp đóng vai trò quan trọng dẫn đến thành công của Chương trình KCNST ở Hàn Quốc [9].

    Về tổ chức thực hiện và vận hành mô hình KCNST, cơ chế thực hiện các dự án cộng sinh công nghiệp trong quá trình chuyển đổi mô hình KCNST tại Hàn Quốc dựa trên sự kết hợp giữa hỗ trợ kỹ thuật và tài chính. Về kỹ thuật, các dự án nhận hỗ trợ từ các trung tâm KCNST vùng, trường đại học, viện nghiên cứu, và công ty tư vấn thông qua ủy ban tư vấn khu vực. Về tài chính, sau khi dự án được KICOX và Ủy ban đánh giá phê duyệt, dự án có thể được tài trợ từ 33-75% bởi ngân sách của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng (MOTIE), chính quyền địa phương hỗ trợ thêm 10-25% chi phí R&D. Doanh nghiệp chỉ phải đóng góp 10% vốn đối ứng. Khi dự án thành công và thương mại hóa, doanh nghiệp sẽ trả phí công nghệ từ 20-40% vốn tài trợ của nhà nước trong vòng 5 năm. Cơ chế này giúp giảm bớt gánh nặng tài chính và rủi ro cho doanh nghiệp, thu hút đầu tư tốt hơn khi các lợi ích về kinh tế và môi trường trở nên rõ ràng. Ngoài ra, các dự án còn được hỗ trợ tài chính từ các chương trình như Công ty Tiết kiệm nước (WASCO), Công ty Dịch vụ năng lượng (ESCO), Quỹ Bảo lãnh tín dụng cơ sở hạ tầng (KICGF) và Đối tác công tư (PPP). Chính phủ Hàn Quốc cũng có chương trình hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đầu tư vào hạ tầng tiết kiệm năng lượng và giảm khí thải nhà kính.

Hình 3. Cơ cấu quản lý chương trình khu công nghiệp sinh thái của Hàn Quốc Nguồn: [1]

    Chính sách tài chính của Hàn Quốc đã đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy thành công của các KCNST, với những kết quả cụ thể và bài học quan trọng từ quá trình thực thi.

    Thứ nhất, cam kết tài chính mạnh mẽ từ Chính phủ đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của KCNST. Không chỉ ban hành Đạo luật Thúc đẩy cơ cấu công nghiệp thân thiện môi trường (1995) - Cơ sở pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho chiến lược phát triển KCNST, cho phép áp dụng các tiêu chuẩn quản lý môi trường như ISO 14001 vào các KCN, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp triển khai sản xuất sạch hơn, Chính phủ Hàn Quốc còn thiết kế một khung tài chính hỗn hợp rất linh hoạt nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia. Tỷ lệ tài trợ công cho các dự án KCNST dao động từ 33%-75% tổng chi phí, tùy theo mức độ đổi mới và tiềm năng cộng sinh; phần còn lại được đồng tài trợ bởi chính quyền địa phương (10%-25%) và doanh nghiệp đối ứng (10%-15%) [2]. Chính phủ, thông qua Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng (MOTIE) và KICOX, đã trực tiếp điều phối và triển khai chương trình. Sự hỗ trợ tài chính liên tục từ Chính phủ đã đảm bảo thành công cho giai đoạn đầu của chương trình KCNST, giúp các dự án cộng sinh công nghiệp đạt tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI) lên tới 3.000% trong giai đoạn đầu. Bài học rút ra là sự cam kết mạnh mẽ về tài chính từ Chính phủ là yếu tố cốt lõi cho thành công của chương trình KCNST.

    Thứ hai, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ góp phần quan trọng trong việc phát triển bền vững KCNST. Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình như Công ty tiết kiệm nước (WASCO) và Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO) để cung cấp hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế và tín dụng cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ thân thiện với môi trường. Trong giai đoạn đầu của chương trình, 30/116 dự án cộng sinh công nghiệp đã đi vào hoạt động, giúp giảm 477.633 tấn chất thải, 110.032 tấn nước thải, 176.781 toe (tấn dầu quy đổi) năng lượng và 668.198 tấn CO2. Bài học cho Việt Nam, hỗ trợ công nghệ giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng tài chính và góp phần vào phát triển bền vững của KCNST.

    Thứ ba, cơ chế chia sẻ rủi ro tài chính giữa Chính phủ và doanh nghiệp cũng đã giúp tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp vào các dự án KCNST. Mức hỗ trợ từ Chính phủ dao động từ 33-75%, trong khi chính quyền địa phương tài trợ thêm 10-25% chi phí R&D. Doanh nghiệp chỉ phải đóng góp 10% vốn đối ứng và khi dự án thành công, họ chỉ trả phí công nghệ tương ứng với 20-40% vốn tài trợ của nhà nước trong vòng 5 năm. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro tài chính ban đầu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đến cuối giai đoạn 2 của chương trình, số lượng dự án nhận được tài trợ đã tăng lên 221/346, với 146 dự án đã đi vào hoạt động, tiết kiệm 1,35 triệu toe năng lượng và giảm 6,48 triệu tấn CO2. Bài học rút ra là, chia sẻ rủi ro giúp khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào quá trình cộng sinh công nghiệp, đặc biệt ở giai đoạn đầu tư công nghệ.

    Thứ tư, huy động nguồn lực từ chính quyền địa phương đã đóng góp tích cực vào sự thành công của KCNST. Từ giai đoạn 2015-2019, chính quyền địa phương tham gia đóng góp ít nhất 20% ngân sách cho các dự án R&D, giúp tăng tính chủ động của các khu vực trong việc phát triển bền vững. Tổng vốn đầu tư cho các cơ sở cộng sinh công nghiệp đạt 623,7 tỷ won, tạo ra 848 việc làm mới. Bài học cho Việt Nam là, việc huy động nguồn lực từ chính quyền địa phương giúp tối ưu hóa hiệu quả triển khai chương trình và phát huy tính chủ động trong việc phát triển các khu công nghiệp.

    Liên hệ với Việt Nam

    KCNST đã được quy định tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ về quản lý KCN và khu kinh tế [4], tuy nhiên việc thực hiện còn nhiều vướng mắc liên quan đến áp dụng các giải pháp về sử dụng hiệu quả tài nguyên sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, cộng sinh công nghiệp, đặc biệt đối với việc tái sử dụng chất thải, phế liệu vào quá trình sản xuất và phục vụ các mục đích khác.

    Ngày 28/5/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP về quản lý KCN và khu kinh tế thay thế Nghị định số 82/2018/NĐ-CP, trong đó quy định về chính sách hỗ trợ và hợp tác phát triển KCNST; tiêu chí xác định; các ưu đãi; trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký chứng nhận KCNST, doanh nghiệp sinh thái; các quy định liên quan đến chứng nhận lại hoặc chấm dứt hiệu lực, thu hồi Giấy chứng nhận KCNST, doanh nghiệp sinh thái; khuyến khích, định hướng việc quy hoạch và xây dựng mới các KCNST thông qua quy hoạch xây dựng, thiết kế hợp lý các phân khu chức năng và định hướng thu hút các dự án đầu tư có ngành, nghề tương đồng để hỗ trợ thực hiện cộng sinh công nghiệp và có ưu đãi để khuyến khích phát triển KCNST mới như không áp dụng tỷ lệ lấp đầy đối với mô hình KCN này. Đồng thời, bổ sung thêm các quy định về việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu yếu tố đầu vào, đầu ra của hoạt động sản xuất trong KCN, cơ chế giám sát và báo cáo định kỳ về hiệu quả tài nguyên, sản xuất sạch hơn, giảm phát thải, được tích hợp vào hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quốc gia về KCN, khu kinh tế; tiến tới xây dựng kinh tế tuần hoàn trong KCN, khu kinh tế. Nghị định cũng đã quy định về việc hình thành KCNST mới nhằm thúc đẩy định hướng phát triển KCNST ngay từ đầu tại một số địa phương trên cơ sở lợi thế, điều kiện và khả năng thực hiện. Bổ sung các quy định để đảm bảo điều kiện an sinh xã hội cho người lao động làm việc trong KCN; các địa phương phải xác định quỹ đất để quy hoạch xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong các KCN ngay từ bước quy hoạch phát triển các KCN trên địa bàn; việc phê duyệt quy hoạch hoặc hoàn thành đầu tư xây dựng khu nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động (đối với dự án KCN mở rộng) là điều kiện bắt buộc để được chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN (hoặc KCN mở rộng); bổ sung quy định về việc xây dựng công trình dịch vụ, tiện ích công cộng, cơ sở lưu trú cho người lao động làm việc trong KCN trên phần đất dịch vụ trong KCN [5].

    KCNST cũng được coi là một trong những giải pháp thực hiện kinh tế tuần hoàn được quy định tại pháp luật về BVMT, đồng thời, được lồng ghép vào Chiến lược thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2030 [6], Chiến lược Tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 [7], Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam [8], Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP26.

    Cho đến nay, mô hình KCNST đang được nhân rộng tại một số địa phương và qua quá trình phát triển, mô hình này được cộng đồng doanh nghiệp đón nhận rất tích cực. Ngoài việc chuyển đổi các KCN sinh thái thì các nhà đầu tư hạ tầng KCN với tư tưởng mới đã đề xuất nhiều dự án đầu tư hạ tầng KCNST mới ngay từ đầu với những cam kết mạnh mẽ hơn về chiến lược phát triển bền vững ngay từ khi lập quy hoạch, lập hồ sơ tiếp cận chủ trương đầu tư cũng như định hướng thu hút các nhà đầu tư thứ cấp vào KCN. Việt Nam hiện có 436 KCN, thu hút khoảng 35%-40% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng thêm hàng năm, trong đó hơn 300 KCN đang hoạt động tạo việc làm cho hơn 4,16 triệu lao động trực tiếp và đóng góp trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tại Việt Nam, mô hình KCNST được triển khai từ những năm 2014 với sự hỗ trợ của nhiều nhà tài trợ quốc tế, trong đó có Tổng cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO) và Quỹ Môi trường toàn cầu. Hiện nay, với sự hỗ trợ của SECO, Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi 4 KCN sang KCNST (giai đoạn 2015-2029) và 3 KCN đang thực hiện chuyển đổi từ 2020 đến 2024 [10].

    Tuy nhiên, việc chuyển đổi sang mô hình KCNST gặp một số khó khăn trong việc chuyển đổi mô hình phát triển đòi hỏi cần được tháo gỡ. Theo đó, chi phí cho việc thực hiện các giải pháp chuyển đổi từ KCN truyền thống sang KCNST đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn hoặc các giải pháp kỹ thuật tiên tiến trong khi nguồn lực của doanh nghiệp có hạn. Bên cạnh đó, các quy định liên quan đến việc xây dựng, phát triển các KCNST còn thiếu và chưa thống nhất gây cản trở cho các KCN trong việc chuyển đổi mô hình phát triển. Ngoài ra, để sử dụng hiệu quả tài nguyên, cần tái sử dụng tài nguyên nhưng thực tế qua quá trình thu hút đầu tư, bản thân các KCN gặp khó khăn khi thu hút các dự án tái chế, do các quy định pháp luật chưa có những quy định cụ thể về việc KCN có được thu hút các ngành nghề đó không. Bên cạnh đó, việc các KCN phải thay đổi toàn bộ hệ thống giấy tờ như: báo cáo đánh giá tác động tài nguyên, môi trường, các loại giấy phép về môi trường… cũng gây tốn kém thời gian, chi phí của doanh nghiệp [11].

    Thực tiễn cho thấy, Việt Nam có thể học hỏi nhiều bài học kinh nghiệm quý báu từ Hàn Quốc trong việc tháo gỡ các điểm nghẽn về chính sách tài chính hỗ trợ phát triển khu công nghiệp sinh thái. Trong đó, cần đưa KCNST thành một cấu phần bắt buộc trong quy hoạch tổng thể phát triển KCN quốc gia, gắn với chiến lược phát triển bền vững và lộ trình thực hiện cam kết Net Zero đến 2050. phát triển KCNST phải được đặt trong chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển quốc gia, chứ không chỉ là giải pháp môi trường kỹ thuật thuần túy. Ngoài ra, hoàn thiện khung pháp lý là điều kiện tiên quyết để chuyển đổi từ thí điểm sang thể chế hóa mô hình KCNST. Bên cạnh đó, học hỏi Hàn Quốc, Việt Nam cần thiết lập cơ quan chuyên trách về phát triển KCNST trực thuộc Bộ Tài chính (trước đây là Bộ Kế hoạch và Đầu tư), giao quyền rõ ràng cho ban quản lý KCN cấp tỉnh trong việc lựa chọn, giám sát và đánh giá quá trình chuyển đổi…

Trần Thị Minh, Phạm Thế Cường

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 12/2025)

    Tài liệu tham khảo

    1. Park, J. M., Park, J. Y., Park, H. S. (2016). A review of the national eco-industrial park development program in Korea: Progress and achievements in the first phase (2005-2010), Journal of Cleaner Production, 114, 33-44.

    2. GGGI (2017). Case Study Greening Industrial Parks - A Case Study on South Korea’s EcoIndustrial Park Program, retrieved from. https://www.greenpolicyplatform.org/sites/default/files/downloads/best-practices/GGGI%20Case%20Study_South%20Korea%20Eco-Industrial%20Park%20Program_June%202017.pdf.

    3. Kim, J. H. (2017). Sustainable industrial parks and the development of eco-industrial networks in Korea. Korean Development Institute.

    4. Chính phủ (2018). Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định về quản lý KCN và khu kinh tế.

    5. Chính phủ (2022). Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 quy định về quản lý KCN và khu kinh tế.

    6. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 889/QĐ-TTg ngày 24/6/2020 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030.

    7. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.

    8. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 687/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.

    9. TS. Vương Thị Minh Hiếu TS. Nguyễn Trâm Anh, ThS. Bùi Hồng Phương: Khu công nghiệp sinh thái - Mô hình phát triển bền vững, Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 11/2022

    10. Hải Yến (2024). Việt Nam sẽ nhân rộng đầu tư, phát triển mô hình KCN sinh thái, truy cập từ https://baodautu.vn/viet-nam-se-nhan-rong-dau-tu-phat-trien-mo-hinh-khu-cong-nghiep-sinh-thai-d230107.html.

    11. Nguyễn Quỳnh Trang (2025). Quản lý nhà nước đối với phát triển khu công nghiệp sinh thái: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo.

 

Ý kiến của bạn