27/02/2025
Nguồn lực tài chính là tổng thể các tài sản có giá trị hoặc khả năng sinh lời mà một tổ chức, doanh nghiệp hoặc quốc gia có thể huy động để duy trì hoạt động, đầu tư và phát triển. Chúng bao gồm vốn cổ phần, vốn vay, lợi nhuận tích lũy, tài sản, vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI, ODA) và các nguồn thu khác như ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí. Nguồn lực tài chính là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và sự tồn tại bền vững của mọi chủ thể. Nguồn lực tài chính để xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề bao gồm nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước (ngân sách địa phương, ngân sách Trung ương) và nguồn lực tài chính ngoài ngân sách nhà nước (vốn từ các doanh nghiệp (DN), vốn từ cộng đồng…).
Một góc làng lụa Vạn Phúc
Nguồn lực tài chính là một yếu tố đầu vào quan trọng để đạt được yêu cầu về BVMT nói chung và công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề nói riêng.
Nguồn lực tài chính được huy động sẽ hình thành nguồn vốn đầu tư cho công tác BVMT, cho phép việc đầu tư, mua sắm trang thiết bị, máy móc… phục vụ, hỗ trợ cho công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề.
Nguồn lực tài chính mà chúng ta huy động được cho công tác BVMT làng nghề sẽ tạo điều kiện tiền đề, giúp nâng cao năng lực và trình độ khoa học công nghệ, để ứng dụng được công nghệ vào hoạt động sản xuất và đời sống, đáp ứng các yêu cầu về BVMT, đảm bảo mục tiêu duy trì phát triển kinh tế nhưng không gây hại quá mức đến môi trường.
Nguồn lực tài chính huy động được từ các nguồn ngoài ngân sách có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bổ sung, hỗ trợ cho nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước các cấp.
Nguồn lực tài chính hữu hạn vì vậy, để đáp ứng tốt cho hoạt động đầu tư, cần nâng cao hiệu quả sử dụng, đáp ứng các yêu cầu về BVMT làng nghề cần thiết phải duy trì một lực lượng tài chính ổn định và mang tính lâu dài, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Như vậy, có thể thấy nguồn lực tài chính đóng vai trò quan trọng đối với công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề phát triển kinh tế - xã hội, cả về chất và lượng. Nó là điều kiện cần của công tác BVMT làng nghề. Điều kiện đủ là các nguồn lực tài chính này phải được sừ dụng có hiệu quả, tiết kiệm.
Để tháo gỡ khó khăn và huy động hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho công tác BVMT tại các làng nghề, đặc biệt là công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề, cần đẩy mạnh thực hiện xây dựng, hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực tài chính, như sau:
Một là, nguồn lực từ ngân sách
Hoàn thiện cơ chế, chính sách trái phiếu xanh do Chính phủ, chính quyền địa phương phát hành theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu để huy động nguồn vốn cho các hoạt động BVMT; ưu tiên nguồn lực đầu tư và khuyến khích chính quyền địa phương, các tổ chức, đơn vị và cá nhân đầu tư bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, phát huy lợi thế tự nhiên thông qua các cơ chế trái phiếu xanh, mua sắm xanh, tín chỉ carbon rừng, chi trả dịch vụ hệ sinh thái, cơ chế hoán đổi nợ cho đầu tư vào vốn tự nhiên và các công cụ kinh tế, tài chính khác theo quy định.
Cùng với đó, cần xây dựng khung chính sách thuế, phí làm cơ sở để hoàn thiện chính sách BVMT theo hướng: mở rộng phạm vi đối tượng chịu thuế, phí BVMT để bao quát hết các hàng hoá nguy hại đối với môi trường; thu hẹp mức thuế suất tuyệt đối, mở rộng phạm vi áp dụng thuế suất tương đối và phương pháp thuế suất hỗn hợp nhằm khắc phục được hạn chế của mức thuế suất đối với thị trường, giá cả và lạm phát…, góp phần hạn chế gian lận thuế. Đồng thời, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, với các phương tiện giao thông có dung tích xi lanh lớn duy trì mức thuế suất cao đối để góp phần giảm ô nhiễm không khí và tăng thu ngân sách nhà nước, để kích thích sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu sạch, hạn chế sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu hóa thạch cần điều chỉnh theo hướng giảm mức thuế suất thấp hơn nữa đối với nhóm nhiên liệu sạch.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách thu tiền sử dụng đất, bán, cho thuê tài sản nhà nước… sử dụng đầy đủ và có hiệu quả hơn các công cụ thị trường, tăng cường tính công khai, minh bạch trong định giá, đấu giá quyền sử dụng đất, bán, cho thuê, thuê mua nhà thuộc sở hữu nhà nước góp phần chống gian lận, tránh thất thoát, đảm bảo hiệu quả nguồn thu ngân sách nhà nước.
Cơ chế phân cấp, phân chia nguồn thu giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương: Đối với các khoản thu phần lớn dựa vào hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên (đất đai, quyền khai thác tài nguyên nước, chi trả dịch vụ môi trường rừng), việc quy định các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100% áp dụng chung cho các địa phương trong khi có sự không đồng đều trong phân bổ tài nguyên dẫn đến những bất cập. Do đó, để khắc phục tình trạng này, với mục tiêu tạo sự tương thích, công bằng giữa các địa phương có thể căn cứ vào tiêu chí phân bổ tài nguyên để điều chỉnh chính sách theo hướng phân nhóm địa phương tương đồng, trên cơ sở đó, phân nhóm nguồn thu ngân sách địa phương. Ngoài ra, bổ sung cơ chế kiểm soát quyền lực trong thực hiện chính sách phân chia tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương hoặc giữa các cấp ngân sách địa phương đối với một số khoản thu để hạn chế tiêu cực trong quá trình thực hiện.
Hai là, nguồn lực tài chính từ cộng đồng
Xây dựng, ban hành một số chính sách mới nhằm huy động nguồn lực tài chính từ cộng đồng cho công tác BVMT làng nghề trên địa bàn các tỉnh, thành phố trong cả nước, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, của người dân vào công tác thực hiện phương án BVMT làng nghề ở Việt Nam: khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật để người dân, cộng đồng triển khai và mở rộng quy mô các mô hình sản xuất tiết kiệm, an toàn, văn minh, mang đậm bản sắc dân tộc, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên; phát triển mô hình đô thị sinh thái,… mô hình phân loại rác thải tại nguồn theo phương pháp giảm thiểu - tái chế - tái sử dụng (mô hình 3K), cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng; vận động và khuyến khích sử dụng NLTC của cộng đồng tham gia vào lĩnh vực quản lý rủi ro thiên tai, trồng rừng và quản lý rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, …
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác BVMT, tham gia thực hiện phương án BVMT làng nghề; đa dạng hóa các hình thức của hoạt động tuyên truyền tạo ra phong trào tự vận động phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn: thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các biện pháp thi đua, khen thưởng… Phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội trong việc hướng dẫn, tư vấn về BVMT và phối hợp giải quyết hậu quả ô nhiễm môi trường; thành lập các quỹ bảo vệ môi trường từ đóng góp của người dân, hội viên và các nguồn hợp pháp khác; vận động hội viên, cộng đồng và người dân thực hiện tốt chính sách pháp luật về BVMT góp phần nâng cao nhận thức, lối sống thân thiện với môi trường. động viên, khích lệ hội viên, người dân địa phương tham gia xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, thu gom, xử lý chất thải, cải tạo và phục hồi môi trường; hướng dẫn hội viên, người dân áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến và sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường.
Ba là, nguồn lực từ các doanh nghiệp, tổ chức tài chính
Hoàn thiện khung pháp lý khuyến khích, kích thích các doanh nghiệp đầu tư cho công tác BVMT thông qua sử dụng các công cụ tài chính như thuế, lãi suất, giá cả… hoặc công cụ tài chính khác (phát hành trái phiếu, vay nợ từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước…). Cần mở rộng phạm vi đối tượng ưu đãi thuế nhập khẩu đối với các phương tiện, vật liệu… phục vụ trực tiếp xây dựng các công trình BVMT, đặc biệt là công trình tại các làng nghề mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được tiêu chuẩn trong xây dựng công trình BVMT, nhất là trong lĩnh vực giao thông vận tải và phát triển đô thị sinh thái không thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu.
Tăng mức ưu đãi thuế và mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng ưu đãi thuế, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN, ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… đối với các doanh nghiệp thực hiện các dự án xây dựng công trình BVMT làng nghề, dự án phát triển du lịch sinh thái làng nghề,… để khuyến khích các DN đầu tư vào lĩnh vực BVMT. Mặt khác, sử dụng đầy đủ các công cụ kinh tế, công cụ kỹ thuật khác để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động dịch vụ môi trường, tăng tính cạnh tranh thị trường để nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực dịch vụ môi trường tại các làng nghề hiện nay.
Đẩy mạnh phát triển thị trường vốn và hoàn thiện khung pháp lý về hỗ trợ tài chính của Nhà nước thông qua hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và các công cụ nợ của doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực BVMT huy động vốn thông qua thị trường mở đầu tư cho công tác BVMT làng nghề. Xem xét việc mở rộng đối tượng được hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp đầu tư các dự án, công trình xanh khu dân cư, sản xuất vật liệu thân thiện với môi trường… Bên cạnh đó, xây dựng, và ban hành khung chính sách về tài chính, sản phẩm tài chính cho các DN hoạt động liên quan lĩnh vực BVMT làng nghề hoạt động trên thị trường vốn mở: thực hiện từng bước đối với lĩnh vực ưu tiên BVMT về phát hành trái phiếu doanh nghiệp…
Hương Mai