31/03/2025
Đây chính là Báo cáo vừa được các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB) và các chuyên gia tư vấn thực hiện. Theo Báo cáo, Việt Nam đã đặt ra mục tiêu tham vọng về khử các-bon trong nền kinh tế vào năm 2050. Sau cam kết của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tại COP26 năm 2021 về phát thải ròng bằng không trên toàn bộ nền kinh tế đến năm 2050, các kế hoạch về thải các-bon trong lĩnh vực giao thông vận tải đã được triển khai xây dựng và ban hành.
Năng lượng là nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất, trong đó giao thông là lĩnh vực chính làm gia tăng mức đóng góp này. Nếu không khử các-bon, tỷ lệ đóng góp trong lĩnh vực này sẽ còn tiếp tục tăng mạnh do tỷ lệ sử dụng xe hơi đang gia tăng nhanh chóng. Lĩnh vực giao thông vận tải xả ra 32,9 triệu tấn khí thải các-bon đi-ô-xít tương đương (MtCO2eq) trong năm 2021, tương đương 7,2% tổng lượng khí thải nhà kính trên toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam, phần lớn trong đó là do giao thông đường bộ, trong đó phân khúc phương tiện đường bộ xả thải nhiều nhất là xe tải chở hàng. Mặc dù sở hữu xe hơi vẫn là điều xa xỉ đối với hầu hết người Việt Nam ngày nay, nhưng sự phát triển của tầng lớp cấp trung lưu đã và đang làm tăng doanh số bán xe hơi với tốc độ tăng 15% mỗi năm kể từ năm 2010, thuộc dạng cao nhất trong khu vực. Nếu lĩnh vực này không được khử các-bon, khí thải từ giao thông dự kiến sẽ tăng mạnh, lên đến 334 MtCO2eq vào năm 2050 theo Kịch bản phát triển thông thường (BAU).
Mẫu xe điện của Vinfast
Để đáp ứng với những nhu cầu cấp bách của phát triển kinh tế và môi trường, Chính phủ đã đặt ra chỉ tiêu về phương tiện giao thông điện (xe điện) liên quan đến điện khí hóa và sản xuất phương tiện, hạ tầng sạc, đến năm 2050. Trong tháng 7/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 876/QĐ-TTg, đề ra các mục tiêu tiêu nhằm chuyển đổi sang sử dụng xe điện trong lĩnh vực giao thông đường bộ, phấn đấu đạt 50% phương tiện giao thông đô thị và 100% xe buýt và ta-xi nội đô đến năm 2030 và 100% phương tiện giao thông đường bộ vào năm 2050 sử dụng xe điện hoặc xe sử dụng năng lượng xanh. Quyết định trên cũng đặt ra mục tiêu về phát triển mạng lưới hạ tầng sạc, sản xuất và lắp ráp xe điện.
Thực tế, xe máy điện phù hợp về giá, khoảng cách di chuyển và từng bước được người dùng đón nhận ở khu vực đô thị. Với phương tiện này, Việt Nam là thị trường lớn thứ hai, sau Trung Quốc, 12% thị phần vào năm 2022. Thị trường cũng sẵn sàng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi với trên 37 nhà cung cấp. Đây cũng là phân khúc chủ chốt trong lộ trình chuyển đổi xe điện của Việt Nam từ nay đến 2035. Dự tính doanh số loại phương tiện này sẽ cân bằng với ôtô điện trong 2035, rồi dần nhường thị phần cho xe bốn bánh.
Để đẩy nhanh điện hóa trong phân khúc xe máy, nhóm chuyên gia WB khuyến nghị Việt Nam thực hiện các tiêu chuẩn an toàn, sử dụng pin hiệu suất cao và mở rộng trạm sạc, dịch vụ đổi pin. Bên cạnh đó, chính phủ nên có các hỗ trợ về tài chính để bù đắp chi phí ban đầu như vốn vay ưu đãi nhằm giảm mức chênh lệch giá giữa xe điện và xăng. Kích cầu cũng là một động thái quan trọng thúc đẩy chuyển đổi sử dụng xe máy điện. Một biện pháp mạnh mẽ khác được khuyến nghị là áp chỉ tiêu xe máy điện đạt 40% năm nay tại các địa bàn đô thị và tăng lên 80% vào 2030. Ngoài ra, để đảm bảo lộ trình chuyển đổi hiệu quả và giảm thải, Việt Nam cần lưu tâm đến hoạt động tái chế pin xe điện sau sử dụng. Thực tế, tái chế pin còn mới mẻ ở Việt Nam, đồng nghĩa việc Chính phủ cần đóng vai trò quan trọng để khuyến khích các thành viên thị trường tham gia quản lý chất thải rắn. Những hành động trên cũng hết sức quan trọng để giảm chi phí xe điện
tương quan với chi phí của phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Đức Anh