Banner trang chủ

Chung tay bảo tồn đa dạng sinh học biển

06/06/2025

    Ngày 5/6/2025, tại Hà Nội, Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Chính sách, pháp luật về BVMT, bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) biển” nhằm hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới (5/6) và Tháng hành động vì môi trường. Tham dự Hội thảo có Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam TS. Đặng Xuân Thanh; Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững TS. Nguyễn Song Tùng; đại diện Cục Bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH, Bộ Nông nghiệp và Môi trường; Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và Phát triển cộng đồng (MCD); Trung tâm Giáo dục thiên nhiên (ENV) cùng đông đảo các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu…

Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam TS. Đặng Xuân Thanh phát biểu khai mạc Hội thảo

    Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam TS. Đặng Xuân Thanh cho biết, Việt Nam là một trong 12 trung tâm  DSH toàn cầu, với hệ sinh thái biển phong phú và độc đáo. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển kinh tế thiếu bền vững, nhiều hệ sinh thái đang bị suy thoái nghiêm trọng. Trước thực trạng trên, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền BVMT biển, năm 2025, Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững chọn chủ đề là “Bảo tồn ĐDSH biển”, nhằm thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TƯ của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Tại Hội thảo hôm nay, các đại biểu sẽ cùng tham gia thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi chính sách môi trường biển trong bối cảnh hiện nay.

    Nhân dịp này, TS. Đặng Xuân Thanh đề nghị các nhà khoa học, viên chức, người lao động của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hãy hành động thiết thực và chủ động đề xuất các sáng kiến phục vụ tư vấn chính sách về kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh và sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến BVMT biển; sử dụng hiệu quả tiết kiệm tài nguyên, ứng phó BĐKH; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với BVMT, góp phần nâng cao sự hiểu biết, ý thức trách nhiệm trong cộng đồng về BVMT biển.

    Báo cáo tại Hội thảo, Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững TS. Nguyễn Song Tùng cho biết, Việt Nam được Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) đánh giá là một trong 10 trung tâm ĐDSH biển và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi hải sản phong phú trên thế giới với khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau.

Toàn cảnh Hội thảo

    Đến nay, Việt Nam đã thành lập và đưa vào hoạt động mạng lưới 11 trong tổng số 16 Khu bảo tồn (KBT) biển và các Vườn quốc gia có hợp phần bảo tồn biển tại Việt Nam gồm: Cát Bà, Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Bái Tử Long, Hòn Cau, Côn Đảo, Phú Quốc. Hệ thống KBT biển được thành lập không chỉ góp phần bảo đảm cân bằng sinh thái vùng biển, bảo vệ ĐDSH, bảo đảm chức năng điều hòa môi trường, cung cấp nguồn giống và nguồn lợi hải sản mà còn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia.

    Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ĐDSH biển đang bị đe dọa, nhiều loài động, thực vật bị suy giảm, thậm chí có nguy cơ tuyệt chủng. Theo Báo cáo của Bộ TN&MT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong 50 năm qua, diện tích đất rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đã giảm 80%. Cùng với đó, hệ thống rạn san hô (RSH) của biển Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng nguy cấp. Trong khoảng 200 điểm RSH được khảo sát cho thấy, hiện trạng độ phủ của chúng đang giảm sút nhanh chóng. Vì vậy, cần có hành động tích cực bảo vệ RSH và các loài sinh vật biển. Việc hưởng ứng Tháng hành động vì môi trường năm 2025 với Chiến dịch “Chung tay giảm thiểu rác thải nhựa - Lan tỏa lối sống xanh” Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phát động sẽ góp phần quan trọng trong bảo tồn ĐDSH biển.

    Trình bày về thực trạng ĐDSH biển ở Việt Nam, TS. Phạm Thị Trầm, Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững cho biết, vùng biển Việt Nam có khoảng 20 hệ sinh thái điển hình, phân bố trên 1 triệu km2 diện tích ở Biển Đông, trong đó: 155.000 ha rừng ngập mặn; 1.300 km2 rạn san hô; 500 km2 đầm phá ven biển; 16.000 ha cỏ biển và nhiều khu vực bãi triều và cửa sông với đa dạng loài. Động vật đáy có khoảng 6.000 loài, hơn 2000 loài cá, hàng trăm loài rong biển và động vật phù du cũng như nhiều loài thực vật ngập mặn, tôm biển, cỏ biển, rắn biển, chim nước… Nguồn lợi từ ĐDSH biển đã mang lại nguồn sinh kế quan trọng của ngư dân. Tuy nhiên, do khai thác tận diệt, hệ sinh thái biển của nước ta bị suy thoái cũng như suy giảm số lượng loài, vì vậy, cần nâng cao nhận thức và thay đổi tư duy, cách tiếp cận trong công tác bảo tồn biển theo hướng coi công tác bảo tồn biển chính là tiền đề cho phát triển bền vững biển.

    Chia sẻ tại Hội thảo, đại diện MCD cho biết, các mô hình do MCD triển khai tại đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long đã cho thấy hiệu quả tích cực trong bảo tồn rừng ngập mặn, RSH và phát triển sinh kế bền vững. Dẫn chứng về mô hình nuôi tôm sinh thái tại Cà Mau, sáng kiến đồng quản lý RSH ở miền Trung và hỗ trợ thành lập KBT biển cấp tỉnh tại Cô Tô và Cà Mau cho thấy, bài học then chốt là cần đặt cộng đồng vào trung tâm, tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan và tích hợp yếu tố giới, thích ứng BĐKH trong các chương trình bảo tồn.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo

    Đánh giá về việc triển khai các văn bản chính sách về bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH, đại diện Cục Bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết,  các chính sách của Đảng và Nhà nước về BTTN & ĐDSH đang thực sự đi vào cuộc sống, huy động được sự tham gia của các cấp, các ngành. Công tác bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái được chú trọng; nhiều KBT, vườn quốc gia đã có các chương trình, dự án, hoạt động trồng rừng, phục hồi hệ sinh thái rừng hiệu quả; các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm, được ưu tiên bảo vệ; kiểm soát loài ngoại lai xâm hại; bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen và quản lý sinh vật biến đổi gen (GMO); nghiên cứu khoa học hỗ trợ cho công tác bảo tồn ĐDSH được triển khai mạnh mẽ…

    Tuy nhiên, bên cạnhkết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế như: Đầu tư tài chính cho ĐDSH còn thiếu, dàn trải, thiếu trọng tâm và kém hiệu quả; Chưa thúc đẩy được việc áp dụng các nguồn tài chính mới cho ĐDSH (Bồi hoàn ĐDSH, PES, Quỹ…); Thiếu cơ chế khuyến khích đầu tư để hỗ trợ cho ĐDSH; Chưa tạo cơ chế hướng tới xã hội hóa công tác bảo tồn ĐDSH…

    Định hướng về công tác bảo tồn ĐDSH trong thời gian tới, tiếp tục rà soát đồng bộ và chỉnh sửa các Luật có liên quan đến ĐDSH: Luật ĐDSH, Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản theo hướng thống nhất quản lý về ĐDSH; bổ sung các quy định mới (ví dụ: về tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen, tri thức bản địa); Áp dụng các sáng kiến tài chính mới cho bảo tồn: (i) Chương trình mục tiêu về ĐDSH, bảo tồn các loài nguy cấp quý hiếm; (ii) Bồi hoàn ĐDSH; (iii) Quỹ ủy thác bảo tồn ĐDSH và chi trả dịch vụ hệ sinh thái…

    Thảo luận tại Hội thảo, các đại biểu tập trung trao đổi về các quy định pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn triển khai, liên quan đến BVMT, bảo tồn ĐDSH biển; kết quả và bài học kinh nghiệm thực hiện các sáng kiến bảo tồn biển và phát triển cộng đồng tại Việt Nam…

    Bên lề Hội thảo đã diễn ra Chương trình “Đổi rác lấy cây xanh”, cung cấp những thông tin khuyến cáo về nguy cơ mất ĐDSH biển và hướng dẫn người dân bảo vệ các loài sinh vật biển…

Châu Loan

Ý kiến của bạn