23/07/2025
Cụm xã Sơn Động, Tây Yên Tử, An Lạc, Vân Sơn, tỉnh Bắc Ninh (huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang cũ) là các xã vùng cao của tỉnh Bắc Ninh có nhiều giá trị địa sinh thái, nhân văn độc đáo, tiêu biểu có tiềm năng trong phát triển du lịch. Bài viết phân tích tiềm năng phát triển du lịch theo tiếp cận địa sinh thái, nhân văn, thực trạng khai thác, phát triển du lịch tại địa phương từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch bền vững trên địa bàn.
1. Các giá trị sinh thái, nhân văn tiêu biểu ở Sơn Động
Xã Sơn Động, Tây Yên Tử, An Lạc, Vân Sơn, tỉnh Bắc Ninh (huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang cũ) là các xã vùng cao của tỉnh Bắc Ninh có nhiều thắng cảnh, tiêu biểu là Khe Rỗ, thác Ba Tia, Đồng Cao, Khe Chão. Khe Rỗ ở xã An Lạc có diện tích hơn 7.000ha, trong đó rừng tự nhiên gần 5.100ha. Khu Bảo tồn thiên nhiên Khe Rỗ nằm gọn trong lưu vực hai con suối Khe Rỗ và Khe Đin, có mạch nước ngầm thường xuyên tuôn chảy tạo ra những dòng suối trong vắt, khí hậu ôn hòa.
Mặc dù, địa phương có nhiều tiềm năng phát triển du lịch, tuy nhiên sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, triển vọng của địa phương do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, có thể kể đến như việc hỗ trợ các nhà đầu tư triển khai dự án còn chậm; cơ sở hạ tầng, chất lượng nhân lực phục vụ dịch vụ, du lịch còn nhiều bất cập; hạ tầng kết nối phục vụ các hoạt động du lịch chưa đồng bộ, chưa được đầu tư đúng mức; chưa có cơ chế, chính sách để thu hút được doanh nghiệp lớn vào đầu tư; điều kiện, tiềm lực của huyện còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương trong công tác quản lý và khai thác tiềm năng du lịch chưa thật sự hiệu quả… Sau đây là các giá trị sinh thái, nhân văn tiêu biểu của xã Sơn Động.
1.1. Giá trị địa sinh thái
Khu vực nghiên cứu có có độ che phủ rừng chiếm 71,8%, trong đó có trên 18.500 ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng với hệ sinh thái tương đối đa dạng; nhiều cảnh quan thiên nhiên có điều kiện phát triển thành các điểm du lịch như: rừng Khe Rỗ, Đồng Cao, thác Ba Tia, Tây Yên Tử…
Rừng nguyên sinh Khe Rỗ: Khe Rỗ thuộc địa phận xã An Lạc, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 145km về hướng đông bắc, theo tuyến Hà Nội - Bắc Giang - Khe Rỗ. Do ở địa hình núi cao nên vùng rừng Khe Rỗ có khí hậu trong lành, mát mẻ với nhiệt độ trung bình từ 24 - 280C vào mùa hè; vào mùa đông nơi đây lại khoác trên mình chiếc áo ấm áp từ sự đan xen của những tán cây rừng rậm rạp.
Rừng nguyên sinh Khe Rỗ có tổng diện tích tự nhiên 7.153ha, nằm trong ba lưu vực Khe Rỗ, Khe Đin và Khe Nước Vàng. Rừng ở đây rất phong phú về động, thực vật quý hiếm với 786 loài thực vật, 226 loài động vật có giá trị nhiều mặt về kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn gien. Trong số các loài thực vật có 43 loài thực vật quý hiếm như đinh, lim, sến, táu, bách diệp, pơ mu, chò chỉ, kim giao, trầm hương, lát hoa, trò vẩy, bẩy lá… Đặc biệt, trong rừng Khe Rỗ có cây đa tình trên 500 năm tuổi, đã chứng kiến chuyện tình của nhiều thế hệ người dân An Lạc đến đây để tâm tình kết tóc xe duyên…
Khu vực rừng nguyên sinh Khe Rỗ là nơi sinh sống của nhiều cộng đồng dân tộc như: Tày, Dao, Hoa, Kinh… Mỗi dân tộc có những phong tục tập quán độc đáo khác nhau. Trong khe núi có nhiều mạch nước ngầm tuôn chảy tạo thành những dòng suối, trong đó có 2 con suối lớn là suối nước Vàng và Khe Đin. Sở dĩ gọi là suối nước Vàng vì nước ở con suối này vàng như mật ong; trong khi đó, suối Khe Đin lại chảy dài tạo thành những đoạn thác cao. Nơi thác nước đổ xuống tạo thành những hồ nước trong vắt nhìn tận đáy. Qua một vài con suối nhỏ, men theo sườn núi đi sâu vào trong rừng, du khách sẽ ngỡ ngàng trước một bức tranh thiên nhiên muôn màu sắc được tạo nên bởi những cánh rừng già rậm rạp, um tùm.
Rừng nguyên sinh Khe Rỗ có đầy đủ các yếu tố thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm, du lịch nghiên cứu, du lịch nghỉ dưỡng. Vì vậy những năm gần đây, Chính quyền xã An Lạc đang phối hợp với các tổ chức Phi Chính phủ hỗ trợ người dân phát triển du lịch cộng đồng, nhằm đưa nơi đây trở thành một trong những điểm nhấn của du lịch Bắc Giang.
Cảnh quan tự nhiên thuận lợi cho phát triển du lịch: Dãy núi Yên Tử (khu Tây Yên Tử): Phía tây dãy Yên Tử nằm trên địa bàn Sơn Động với địa hình núi non trùng điệp, nhiều di tích Phật giáo gắn liền với thiền phái Trúc Lâm. Cảnh quan hùng vĩ, mây mù bao phủ tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, thích hợp phát triển du lịch tâm linh - sinh thái.
Thác nước Khe Vằn, thác Ba Tia, thác Hang Dầu: Đây là những thác nước đẹp và nổi bật ở Sơn Động, với dòng nước chảy qua ghềnh đá, không gian hoang sơ, trong lành. Đặc biệt vào mùa mưa, các thác nước tạo nên khung cảnh rất thơ mộng và kỳ vĩ.
Suối nước nóng Thanh Luận là nguồn suối khoáng tự nhiên có nhiệt độ khoảng 40-50°C, rất thích hợp để phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Kết hợp cảnh núi rừng tạo nên không gian thư giãn lý tưởng.
Hang đá, động tự nhiên (Hang Lầu, hang Giả): Các hang động ở đây vẫn còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, cấu trúc đá vôi độc đáo, nhiều thạch nhũ lấp lánh. Là tiềm năng lớn cho du lịch khám phá, mạo hiểm.
Các thung lũng, ruộng bậc thang và làng bản dân tộc: Các bản làng của người Dao, Tày, Nùng nằm nép mình dưới chân núi, bao quanh là những thửa ruộng bậc thang đẹp như tranh. Vừa mang giá trị cảnh quan, vừa là di sản văn hóa phi vật thể.
Khí hậu mát mẻ, trong lành quanh năm - tiềm năng phát triển du lịch nghỉ dưỡng sinh thái: Huyện Sơn Động có khoảng 20 dân tộc cùng sinh sống, trong đó chủ yếu là: Người Kinh chiếm tỷ lệ đông nhất, tập trung ở thị trấn và các vùng thấp. Người Dao là dân tộc thiểu số có dân số đông nhất tại huyện, sống chủ yếu ở các xã vùng cao như An Lạc, Vân Sơn, Lệ Viễn. Người Tày sinh sống tại các xã như Long Sơn, Yên Định... Người Nùng: có mặt rải rác tại một số xã phía bắc huyện. Người Sán Chay, Sán Dìu, Hoa, H’mông…: có số lượng ít hơn, nhưng vẫn giữ gìn được nhiều nét văn hóa riêng biệt.
Người Dao ở Sơn Động nổi tiếng với các lễ hội truyền thống như: lễ cấp sắc, lễ tết nhảy, và nghề thêu thổ cẩm, làm thuốc nam. Người Tày, Nùng có các làn điệu dân ca như hát lượn, hát then, cùng nghề dệt vải, làm bánh truyền thống. Các dân tộc khác cũng có những lễ nghi, phong tục liên quan đến cưới hỏi, tang ma, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất độc đáo.
Các dân tộc thiểu số ở Sơn Động đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn rừng đầu nguồn, đa dạng sinh học, và bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là nguồn lực quan trọng để phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái gắn với bản sắc văn hóa.
1.2. Giá trị nhân văn
Khu vực nghiên cứu là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử -văn hóa, hiện còn bảo lưu được hơn 70 di tích lịch sử - văn hoá trong đó có 12 di tích đã được xếp hạng, gồm: 01 di tích di tích lịch sử (Đồi Nương Khoai); 03 di tích lịch sử-văn hóa và kiến trúc nghệ thuật (Đình Đặng, Đền Vua Bà, Miếu Đức Ông); còn lại 8 di tich là di tích Lịch sử-văn hóa. Hệ thống di tích đa dạng về loại hình như: Di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa tín ngưỡng, di tích văn hóa-lịch sử; di tích khảo cổ… Trong số hơn 70 di tích, có di tích còn bảo lưu được kiến trúc cổ hoặc một phần kiến trúc cổ có niên đại từ 100 năm đến hơn 700 năm. Các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn huyện Sơn Động chủ yếu được xây dựng bằng vật liệu gỗ, gạch, đá, vôi vữa, kết cấu khung chịu lực bằng gỗ.
Bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa của trung ương, của tỉnh, UBND huyện Sơn Động (cũ) cũng đã dành một phần ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho các địa phương tu bổ di tích (mỗi năm khoảng 200 triệu đồng). Bên cạnh đó đồng thời UBND một số xã, thị trấn đã cân đối ngân sách địa phương hỗ trợ kinh phí tu bổ di tích (tiêu biểu như: An Lập, Thị Trấn An Châu, Tuấn Đạo, Lệ Viễn..) và huy động các nguồn lực khác từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân cho việc tu bổ di tích.
Để bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích trọng điểm gắn với phát triển du lịch, thời gian qua, UBND huyện Sơn Động (cũ) đã đầu tư hơn 10 tỷ đồng cho công tác lập quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị cho các di tích trên địa bàn, tiêu biểu như Khu Du lịch văn hóa tâm linh-sinh thái Tây Yên Tử, Khu Du lịch Khe rỗ-Du lịch Cộng Đồng, Cổng biển chào, hỗ trợ các di tích khác trên địa bàn.
Cộng đồng các dân tộc Dao, Tày, Nùng với bản sắc văn hóa độc đáo: Huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang là một địa phương miền núi nằm ở phía đông bắc của tỉnh, có địa hình đa dạng và khí hậu mát mẻ quanh năm. Đây là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, tạo nên một cộng đồng đa dạng về văn hóa, phong tục tập quán.
Huyện Sơn Động có khoảng 20 dân tộc cùng sinh sống, trong đó chủ yếu là Người Kinh chiếm tỷ lệ đông nhất, tập trung ở thị trấn và các vùng thấp. Người Dao là dân tộc thiểu số có dân số đông nhất tại huyện, sống chủ yếu ở các xã vùng cao như An Lạc, Vân Sơn, Lệ Viễn. Người Tày: sinh sống tại các xã như Long Sơn, Yên Định... Người Nùng: có mặt rải rác tại một số xã phía bắc huyện. Người Sán Chay, Sán Dìu, Hoa, H’mông…: có số lượng ít hơn, nhưng vẫn giữ gìn được nhiều nét văn hóa riêng biệt.
Người Dao ở Sơn Động nổi tiếng với các lễ hội truyền thống như: lễ cấp sắc, lễ tết nhảy, và nghề thêu thổ cẩm, làm thuốc nam. Người Tày, Nùng có các làn điệu dân ca như hát lượn, hát then, cùng nghề dệt vải, làm bánh truyền thống. Các dân tộc khác cũng có những lễ nghi, phong tục liên quan đến cưới hỏi, tang ma, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất độc đáo. Các dân tộc thiểu số ở Sơn Động đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn rừng đầu nguồn, đa dạng sinh học, và bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là nguồn lực quan trọng để phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái gắn với bản sắc văn hóa.
Các lễ hội truyền thống: Huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang là một địa phương vùng cao có nhiều dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là người Kinh, Tày, Nùng, Dao... Do đó, nơi đây có đời sống văn hóa phong phú với nhiều lễ hội truyền thống mang bản sắc dân tộc và gắn với tín ngưỡng, lịch sử địa phương. Dưới đây là một số lễ hội tiêu biểu ở huyện Sơn Động:
Bảng 1. Tên lễ hội tiêu biểu ở huyện Sơn Động
Tên lễ hội |
Thời gian |
Ý nghĩa |
Các hoạt động |
Lễ hội Đền Suối Mỡ (xã Nghĩa Phương) |
Từ mùng 1 đến mùng 6 tháng 4 âm lịch hàng năm. |
Tưởng nhớ công chúa Quế Mỵ Nương - người có công khai hoang lập ấp, mở mang nghề nông nghiệp. Thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. |
Rước kiệu, tế lễ, hát chầu văn, múa rối nước, trò chơi dân gian (kéo co, đập niêu…).
|
Lễ hội Đình Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên, giáp ranh Sơn Động - địa điểm gắn liền) |
14 tháng Giêng âm lịch. |
Tưởng niệm ba vị Tam Tổ Trúc Lâm (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang) - gắn bó với Phật giáo Thiền tông. |
Lễ tế Tam tổ, rước kiệu, trình diễn thư pháp, hát dân ca, thi đấu võ cổ truyền, trò chơi dân gian. |
Lễ hội Nhảy lửa của người Dao (ở các xã vùng cao như Tuấn Đạo, Vĩnh Khương, An Lạc) |
Tháng Giêng âm lịch, thường vào rằm tháng Giêng. |
Tín ngưỡng cổ truyền của người Dao – nghi thức nhảy lửa để xua đuổi tà ma, cầu an lành. |
Nam thanh niên sau khi làm lễ cúng sẽ nhảy chân trần trên than hồng – thể hiện lòng dũng cảm, sức mạnh tâm linh. |
Lễ hội cấp sắc (người Dao) |
Diễn ra không cố định, thường vào dịp cuối năm hoặc đầu xuân. |
Lễ đánh dấu sự trưởng thành của nam giới trong cộng đồng người Dao. |
Lễ cúng tổ tiên, thầy cúng làm lễ truyền đạo lý, cấp sắc danh hiệu, sau đó là các hoạt động văn hóa dân gian.
|
Lễ hội cầu mùa, cầu mưa (các dân tộc Tày, Nùng, Dao) |
Đầu năm âm lịch (tháng Giêng - tháng Ba). |
Cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. |
Lễ cúng, múa Then, múa sạp, múa lân, hát sli, lượn,… |
Bên cạnh đó, hệ thống chùa Yên Tử phía Tây nằm trên dãy núi Yên Tử kéo dài về phía Bắc Giang cũng đóng vai trò quan trọng trong hành trình phát triển của Thiền phái Trúc Lâm. Các di tích như chùa Đồng Rì, chùa Hồ Bắc, chùa Am Vãi... không chỉ là nơi tu hành, hành lễ mà còn là điểm đến thu hút đông đảo du khách và phật tử mỗi năm, góp phần tạo nên không gian văn hóa – tâm linh đặc sắc, gắn với thiên nhiên rừng núi linh thiêng. Việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích này sẽ góp phần xây dựng sản phẩm du lịch tâm linh đặc thù, gắn với lịch sử và sinh thái vùng núi Đông Bắc.
2. Hiện trạng quản lý định hướng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù
Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/HU, huyện Sơn Động (cũ) đã kiện toàn và thành lập 7 hợp tác xã du lịch cộng đồng gắn với các điểm có tiềm năng du lịch trên địa bàn huyện, gồm:
+ Hợp tác xã du lịch cộng đồng thôn Gà (Nà Hin) xã Vân Sơn, gắn với sản phẩm du lịch trải nghiệm sinh thái Đồng Cao;
+ Hợp tác xã du lịch cộng đồng thôn Nà Ó và Hợp tác xã nông nghiệp du lịch cộng đồng thôn Biểng xã An Lạc, gắn với sản phẩm du lịch rừng sinh thái Khe Rỗ;
+ Hợp tác du lịch cộng đồng Bản Mậu; Hợp tác du lịch cộng đồng Thanh Chung và Hợp tác du lịch cộng đồng Mậu - Ba Tia gắn với sản phẩm du lịch Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử và sản phẩm du lịch núi Mục - Thác Ba Tia; HTXDLCĐ Ba Tia (TDP Đồng Rì).
Huyện Sơn Động (cũ) đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn tham mưu, tổ chức 05 đợt khảo sát, tập huấn, học tập thực tế cho Ban chỉ đạo du lịch huyện, Ban giám đốc, xã viên HTX du lịch cộng đồng 2 theo thực tế từng điểm du lịch nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh hiện tại của các địa phương để định hướng xây dựng thành các sản phẩm du lịch đặc thù phù hợp với thực tế của địa phương; đặc biệt là “Phiên chợ văn hóa vùng cao” và “Hoạt động kinh tế đêm” tại các điểm du lịch.
Ước tính tổng số lượng khách đến các điểm du lịch trên địa bàn huyện từ năm 2021 đến hết năm 2025 là: 3.676.095 lượt khách. Các điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện đã đón tiếp được hơn 1.800.000 lượt du khách (trong đó đã đón được hơn 40.000 du khách nghỉ lưu trú qua đêm tại HTXDLCĐ) và ngày càng có nhiều đoàn và du khách đến du lịch sinh thái, trải nghiệm tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn huyện trong đó:
Bảng 2. Số lượng khách du lịch tại huyện Sơn Động giai đoạn 2021-2025
Năm |
Kế hoạch năm (lượt người) |
Kết quả (lượt người) |
Tỷ lệ tăng so với năm trước (%) |
Doanh thu (tỷ đồng) |
2021 |
110.000 |
150.002 |
132,75 |
84,5 |
2022 |
360.000 |
630.100 |
420,06 |
301,4 |
2023 |
700.000 |
955.445 |
151,63 |
416,5 |
2024 |
950.000 |
940.548 |
93,38 |
414,1 |
Ước tính 2025 |
1.000.000 |
1.000.000 |
106,38 |
450 |
Nguồn: UBND huyện Sơn Động (2025)
Trong giai đoạn 2021 - 2025, địa phương cũng đã xây dựng được trên 30 phóng sự, tin bài về quảng bá và giới thiệu về tiềm năng du lịch, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, về ẩm thực và một số sản phẩm của địa phương. Phối hợp Báo Bắc Giang, Đài phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Giang, Đài truyền hình VTC14, VTC 10, Tạp chí Du lịch, Tạp chí Cộng sản đã viết tin, bài, ghi hình 15 phóng sự, tin bài về tiềm năng và quản bá du lịch về Sơn Động. Phối hợp với Bảo tàng tỉnh và Đài truyền hình tỉnh tổ chức khảo sát, điều tra, khôi phục và dựng phim phóng sự về nghề truyền thống thêu ren thổ cẩm của đồng bào dân tộc Dao tại bản Mậu (thị trấn Tây Yên tử), cùng phiên chợ vùng cao (chợ Nòn - thị trấn Tây Yên Tử phiên ngày 14/4 âm lịch năm 2022) về phong tục, tập quán sinh hoạt văn hóa, mang bản sắc đặc trưng của các dân tộc tại địa phương nhằm khôi phục, bảo tồn để xây dựng sản phẩm du lịch. - Chỉ đạo cơ quan chuyên môn, UBND xã, thị trấn tham gia các lớp học tập,
tập huấn và hội thảo về phát triển du lịch trên địa bàn, góp phần quảng bá và giới thiệu tiềm năng du lịch đến với công chúng thập phương.
Thời gian qua, các cấp ủy, chính quyền trên địa bàn huyện đã quan tâm chỉ đạo phát triển một số điểm, loại hình du lịch trên địa bàn như: du lịch tâm linh - sinh thái tại Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử; du lịch cộng đồng tại thôn Nà Ó, xã An Lạc; du lịch tham quan trải nghiệm tại Đồng Cao (xã Phúc Sơn). Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch được quan tâm chú trọng, việc kết nối các khu du lịch với các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ và kết nối với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển tiếp tục được quan tâm.
Bên cạnh kết quả bước đầu đạt được, còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn như: Chưa xây dựng, hình thành, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch mới và đã có; chất lượng mô hình du lịch cộng đồng chưa cao, chưa thu hút được nhiều du khách đến tham quan, trải nghiệm, đặc biệt là khách lưu trú qua đêm. Kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hóa thể thao nơi có HTX du lịch cộng đồng còn thấp kém. Đường làng, ngõ phố đã xuống cấp, chưa được đầu tư sửa chữa, xây dựng mới; kiến trúc truyền thống của các hộ gia đình trong cộng đồng bị mai một. Vệ sinh môi trường chưa được coi trọng. Các xã viên HTX mặc dù được tập huấn học hỏi, song còn nhiều bỡ ngỡ về phương pháp làm du lịch, chưa mạnh dạn đầu tư, còn có tư tưởng trông chờ, ỉ lại nhà nước, cấp trên hỗ trợ.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên cơ bản là do nhận thức của một số cấp ủy Đảng, chính quyền, một bộ phận nhân dân về phát triển dịch vụ, du lịch chưa cao; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và nhân dân trong phát triển dịch vụ, du lịch tuy đã có chuyển biến tích cực nhưng chưa nhịp nhàng, nhất là việc hỗ trợ các nhà đầu tư triển khai dự án còn chậm; cơ sở hạ tầng, chất lượng nhân lực phục vụ dịch vụ, du lịch còn nhiều bất cập; hạ tầng kết nối phục vụ các hoạt động du lịch chưa đồng bộ, chưa được đầu tư đúng mức; chưa có cơ chế, chính sách để thu hút được nhiều doanh tầm cỡ quốc gia, quốc tế vào đầu tư các dự án lớn của huyện; điều kiện, tiềm lực của huyện còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương trong công tác quản lý và khai thác tiềm năng du lịch chưa thật sự hiệu quả.
3. Phát huy giá trị địa sinh thái, nhân văn nhằm phát triển du lịch bền vững
Thứ nhất, nhóm giải pháp quy hoạch và đầu tư hạ tầng
Rà soát, bổ sung quy hoạch các điểm du lịch trên địa bàn huyện như: Đồng Cao (xã Phúc Sơn), rừng Khe Rỗ (xã An Lạc), thị trấn Tây Yên Tử và một số điểm có thể phát triển du lịch sinh thái, trải nghiệm và du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện. Các quy hoạch phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch đô thị của các thị trấn và quy hoạch phát triển của địa phương. Đảm bảo có thể thu hút các doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn về đầu tư xây dựng các điểm du lịch. Gắn chặt quy hoạch phát triển du lịch với bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử cùng bản sắc van hóa các dân tộc trên địa bàn huyện.
Phát triển giao thông kết nối các điểm đến ví dụ đường vào Đồng Cao, Khe Rỗ…. Quy hoạch phát triển mở rộng gấp 1,5 đến 2 lần tiêu chuẩn hệ thống hạ tầng giao thông do huyện quản lý kết nối các khu du lịch với các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ và kết nối với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Ví dụ kết nối Sơn Động với Tây Yên Tử, Lục Nam, Quảng Ninh.
Quy hoạch các khu du lịch gắn với bảo tồn các di tích lịch sử - văn hóa có giá trị cao; đảm bảo đồng bộ với quy hoạch các khu đô thị, khu dân cư, khu thương mại - dịch vụ, hệ thống hạ tầng giao thông, hệ thống thiết chế văn hóa.
Quản lý chặt chẽ các quy hoạch đã được phê duyệt. Hạn chế tối đa việc điều chỉnh quy hoạch các khu du lịch đã được phê duyệt, chỉ điều chỉnh trong những trường hợp thực sự cần thiết,cấp bách, tạo giá trị lớn hơn cho cộng đồng, xã hội.
Thứ hai, nâng cao năng lực cộng đồng
Cần nâng cao kỹ năng làm du lịch cho người dân địa phương. Trang bị kiến thức cơ bản về du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm. Hướng dẫn kỹ năng đón tiếp khách, thuyết minh, phục vụ ăn ở, vệ sinh an toàn thực phẩm. Nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Góp phần xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù của Sơn Động. Đối tượng tập huấn bao gồm người dân tại các xã, thôn có tiềm năng phát triển du lịch (An Lạc, Tuấn Mậu, Vân Sơn, Dương Hưu…); các hộ làm homestay, dịch vụ ăn uống, hướng dẫn viên bản địa; cán bộ văn hóa xã, cộng tác viên du lịch cơ sở.
Nội dung tuyên truyền bao gồm tiềm năng du lịch Sơn Động như cảnh quan, văn hóa, hệ sinh thái, lễ hội truyền thống…; xu hướng du lịch hiện nay: du lịch xanh, du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm; Kỹ năng làm du lịch như kỹ năng giao tiếp – ứng xử với khách du lịch; kỹ năng thuyết minh về điểm đến; Hướng dẫn làm homestay: bố trí phòng, vệ sinh, phục vụ ăn uống, trải nghiệm bản địa; Đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm, phòng cháy chữa cháy; Kỹ năng tổ chức hoạt động trải nghiệm: nấu ăn, làm nông, dệt vải, múa hát dân tộc; Bảo vệ tài nguyên và phát triển bền vững: Bảo vệ môi trường, không xả rác, không săn bắt động vật hoang dã; Giữ gìn bản sắc văn hóa: tiếng nói, trang phục, nghề truyền thống; vai trò cộng đồng trong phát triển du lịch.
Phương pháp tổ chức như tập huấn lý thuyết kết hợp thực hành (trực tiếp tại điểm du lịch, hộ homestay); Mời chuyên gia du lịch, hướng dẫn viên, cán bộ quản lý tham gia giảng dạy; Tổ chức hoạt động nhóm, mô phỏng tình huống, chia sẻ kinh nghiệm.
Thứ ba, truyền thông, quảng bá
Tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch thông qua các hình thức đa dạng, phong phú. Kết hợp các cơ quan báo chí trong và ngoài địa phương, đặc biệt các báo ảnh, báo chuyên về du lịch để quảng bá, giới thiệu các sản phẩm du lịch. Áp dụng công nghệ thông tin, Internet, mạng xã hội để tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu các tour, tuyến các địa điểm du lịch trên địa bàn huyện. Xây dựng bộ nhận diện du lịch Sơn Động (logo, slogan).
Quy mô phát triển của dịch vụ, du lịch còn nhỏ hẹp, manh mún, chưa tương xứng với tiềm năng của huyện. Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, đặc biệt là hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đến các khu du lịch còn hạn chế; chưa có các khu vui chơi, giải trí phục vụ du khách; thiếu các cơ sở, nhà hàng, khách sạn đủ các tiêu chí theo quy định để phục vụ khách lưu trú; chưa thu hút được các doanh nghiệp vào đầu tư dịch vụ, du lịch; chưa xây dựng được các tour, tuyến du lịch, đặc biệt là các tour, tuyến du lịch thu hút lượng khách lưu trú dài ngày…
Có cơ chế huy động, hỗ trợ trong thực hiện các dự án bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của các dân tộc thiểu số tại địa phương. Định kỳ hàng năm, hỗ trợ phục dựng và tổ chức các lễ hội truyền thống tại các địa phương như: Lễ hội Soong hao của dân tộc Nùng, Lễ hội cấp Sắc của dân tộc Dao, Lễ Cầu mùa của dân tộc Cao Lan, San Chí; Lễ hội Đua thuyền của dân tộc Cao Lan, Lễ hội Đàn tính – Hát then của dân tộc Tày; Lễ hội Đua Bè mảng; Lễ hội Đình vườn hoa của dân tộc Cao Lan; San Chí; Lễ hội Chùa Chùa, Chùa Sẩy của dân tộc Dao; Lễ hội Đền Vua Bà – Miếu Đức Ông của dân tộc Cao Lan; Lễ hội Xuống đồng của dân tộc Tày. Tạo clip, bài viết, bản đồ du lịch, đưa lên nền tảng số.
Thứ tư, liên kết vùng và doanh nghiệp
Hợp tác với các công ty lữ hành để xây dựng tour đặc thù. Tập trung xây dựng hình thành các điểm, các tour du lịch đến các khu đã được quy hoạch phát triển du lịch; trước mắt tập trung xây dựng các điểm du lịch cộng đồng tại: thôn Nà Hin (xã Vân Sơn), thôn Đồng Cao (xã Phúc Sơn), thôn Nà Ó (xã An Lạc) và Tổ dân phố Mậu (thị trấn Tây Yên Tử); mời gọi các nhà đầu tư lớn vào đầu tư các khu du lịch: Đồng Cao, Khe Rỗ và Tây Yên Tử. Thu hút, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp lữ hành trong và ngoài tỉnh mở các tour du lịch đến xã. Xây dựng, phát triển hoàn thiện các điểm du lịch gắn với hình thành các sản phẩm lưu niệm, sản phẩm đặc trưng, sản phẩm OCOP của địa phương.
4. Kết luận và kiến nghị
Phát triển du lịch cụm xã Sơn Động, Tây Yên Tử, An Lạc, Vân Sơn, tỉnh Bắc Ninh (huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang cũ) có tiềm năng tạo ra nhiều loại hình du lịch, sản phẩm du lịch độc đáo và hướng đi mới cho sự phát triển của địa phương. Các chuyến du lịch mới sẽ được xây dựng để khai thác tài nguyên du lịch tại các điểm và địa phương có điều kiện để phát triển du lịch. Đồng thời, phát triển du lịch còn giúp bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đóng góp vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững và giải quyết tình trạng thất nghiệp. Phát triển du lịch muốn tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương cần có giải pháp đồng bộ từ quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, quảng bá, nâng cao nhận thức cho cán bộ và người làm công tác du lịch tại địa phương.
Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Xuân Hòa
Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững
Châu Loan
Tài liệu tham khảo