28/05/2025
Khu dự trữ thiên nhiên (Khu DTTN) Mường Nhé (tên cũ là Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé) là một trong những khu rừng đặc dụng lớn của cả nước và là khu rừng đặc dụng quan trọng của tỉnh Điện Biên. Nơi đây đang giữ gìn nhiều cánh rừng nguyên sinh với hệ sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, và là nơi quan trọng lưu giữ nguồn gen của nhiều loài động vật và thực vật quý hiếm. Nhân dịp UBND tỉnh Điện Biên vừa ký Quyết định phê duyệt đề cương kỹ thuật thực hiện dự án “Thành lập Vườn Quốc gia (VQG) Mường Nhé trên cơ sở chuyển hạng Khu DTTN Mường Nhé”, Tạp chí Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Diệp Văn Chính - Giám đốc Khu DTTN Mường Nhé về công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học thời gian qua và kỳ vọng việc nâng hạng thành VQG sẽ giúp bảo vệ và phát triển các giá trị đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng như thế nào trong thời gian tới.
PV: Xin ông chia sẻ hiện trạng tài nguyên rừng, đa dạng sinh học của Khu DTTN Mường Nhé để đáp ứng tiêu chí nâng hạng lên VQG, cũng như những công tác bảo vệ rừng của lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng?
Ông Diệp Văn Chính: Khu DTTN Mường Nhé là một trong những khu rừng đặc dụng lớn của cả nước và là khu rừng đặc dụng quan trọng của tỉnh Điện Biên. Nơi đây còn bảo toàn nhiều cánh rừng nguyên sinh với hệ sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, và là nơi quan trọng lưu giữ nguồn gen của nhiều loài động vật và thực vật quý hiếm.
Ông Diệp Văn Chính - Giám đốc Khu DTTN Mường Nhé
Về hiện trạng tài nguyên rừng: Khu DTTN Mường Nhé có diện tích tự nhiên 46.730,51 ha. Trong đó, diện tích có rừng là 36.104,70 ha, đạt tỷ lệ che phủ 77,2%. Chủ yếu là rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh: 35.911,99 ha (chiếm 99,46%); Rừng tự nhiên hỗn giao gỗ và tre nứa: 192,71 ha (chiếm 0,54%). Đặc biệt, kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới phân bố ở độ cao > 700 m so với mực nước biển, có diện tích 44.917,58 ha, chiếm 96,12% tổng diện tích đại diện cho hệ sinh thái rừng đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Về đa dạng sinh học: Theo kết quả “Điều tra, đa dạng sinh học đã ghi nhận trong Khu DTTN Mường Nhé có 976 loài thực vật, trong đó có 33 loài đặc hữu, 128 loài quý hiếm thuộc Sách đỏ Việt Nam và Danh lục đỏ IUCN. Ngoài ra, có 458 loài động vật hoang dã, trong đó có 97 loài có giá trị bảo tồn cao thuộc Sách đỏ IUCN, Sách đỏ Việt Nam, Nghị định số 84/2021/NĐ-CP, 64/2019/NĐ-CP. Một số loài quý hiếm tiêu biểu gồm: Vượn đen tuyền Tây Bắc, Vượn má trắng, Tê tê, Sóc bay lông chân, Sẻ đồng ngực vàng, Trăn gấm… Khu DTTN Mường Nhé còn là vùng giao thoa sinh học giữa Bắc Đông Dương, Nam Trung Hoa và Himalaya tạo nên tính đặc hữu cao, khẳng định giá trị khoa học và bảo tồn đa dạng sinh học tầm quốc gia và quốc tế.
Cán bộ Khu DTTN Mường Nhé trao đổi với người dân về việc triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng
Về hiện trạng rừng và đa dạng sinh học như trên đối chiếu với các tiêu chí tại Điều 6, Nghị định 156/2018 thì Khu DTTN Mường Nhé đáp ứng đủ các tiêu chí nâng hạng lên VQG trong thời gian tới.
Về công tác bảo vệ rừng: Đây là nhiệm vụ thường xuyên của đơn vị, với nguồn nhân lực 24 biên chế và 29 hợp đồng lao động, đơn vị đã tổ chức thành 7 tổ chuyên trách bảo vệ rừng. Thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ: (1) Tuyên truyền pháp luật và giáo dục bảo tồn đến nhân dân và học sinh các trường trên địa bàn; (2) Hướng dẫn và giám sát cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng; (3) Tổ chức tuần tra, kiểm tra, chốt chặn bảo vệ rừng; (4) Phối hợp với các lực lượng và chính quyền địa phương trong công tác bảo vệ rừng bảo tồn đa dạng sinh học; (5) Theo dõi, giám sát và báo cáo diễn biến tài nguyên rừng theo quy định; (6) Thực hiện nhiệm vụ phát triển rừng, trồng rừng trên diện tích được giao; (7) Phối hợp nghiên cứu khoa học và tái thả động vật hoang dã; (8) Kết quả nổi bật giai đoạn 2020 - 2025, phát hiện và tham mưu xử lý 31 vụ vi phạm, trong đó 100% là xử phạt hành chính (so với 03 vụ bị truy tố hình sự trong giai đoạn 2015-2020); Giảm 91% khối lượng gỗ thiệt hại, giảm 12,11% diện tích rừng bị tác động so với giai đoạn trước. Đồng thời, ngăn chặn 651 lượt người vào rừng trái phép, thu giữ và bàn giao 10 khẩu súng kíp, 04 khẩu súng cồn, 3.954 viên vật liệu nổ cho cơ quan chức năng xử lý. Hiện nay, diện tích rừng và đất lâm nghiệp được bảo vệ tốt.
PV: Được biết, việc triển khai thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên các bản vùng đệm Khu dự trữ đã mang lại những tiến bộ đáng kể trong phát triển rừng và giảm thiểu các tác động tiêu cực. Vậy ông hãy cho biết thêm hiệu quả của cơ chế này?
Ông Diệp Văn Chính: Việc triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Khu DTTN Mường Nhé đã được thực hiện liên tục từ năm 2013 đến nay theo hình thức khoán bảo vệ rừng hàng năm (12 tháng). Chính sách này đã mang lại nhiều kết quả thiết thực, không chỉ về mặt kinh tế mà còn có tác động sâu rộng về mặt xã hội và bảo tồn thiên nhiên.
Hằng năm, đơn vị đã thực hiện khoán bảo vệ rừng cho 28/28 bản vùng đệm và các đơn vị lực lượng đóng chân trên địa bàn 5 xã, với diện tích bình quân đạt khoảng 80% tổng diện tích rừng đủ điều kiện khoán. Riêng năm 2025, tỷ lệ thực hiện chiếm gần 55% do đơn vị phải cân đối theo cơ chế tự chủ tài chính.
Tổ chức tuần tra, kiểm tra, chốt chặn bảo vệ rừng tại Khu DTTN Mường Nhé
Trong giai đoạn 2020 - 2025, tổng số tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng lên tới 132,43 tỷ đồng, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Mỗi hộ gia đình tham gia nhận khoán có mức thu nhập dao động từ 5- 25 triệu đồng/năm, tùy theo diện tích rừng được khoán và mức độ tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng tại từng bản.
Hiệu quả nổi bật của chính sách này là đã tạo được sự đồng thuận mạnh mẽ từ nhân dân, người dân không còn là đối tượng thụ động mà đã trở thành chủ thể tham gia trực tiếp vào công tác bảo vệ và phát triển rừng. Qua đó, mối quan hệ gắn kết giữa chính quyền, lực lượng bảo vệ rừng và cộng đồng dân cư ngày càng được củng cố, giúp tăng tính tự quản, tự giác trong phòng ngừa và ngăn chặn hành vi xâm hại tài nguyên rừng.
Bên cạnh đó, nhờ các hoạt động tuyên truyền kết hợp với tập huấn kỹ năng tuần tra, ghi nhật ký, xử lý tình huống vi phạm, nhận thức và kỹ năng bảo vệ rừng của cộng đồng dân cư vùng đệm đã được nâng cao rõ rệt. Từ chỗ thờ ơ hoặc thậm chí tham gia các hành vi vi phạm, nhiều người dân nay đã chủ động tham gia tuần tra rừng, phát hiện, ngăn chặn và báo tin vi phạm kịp thời, giúp bảo vệ tài nguyên rừng hiệu quả hơn.
Chính sách này cũng đã huy động được nguồn lực xã hội hóa, đặc biệt là nguồn lực nhân lực và tri thức địa phương, góp phần giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho việc chuyển đổi mô hình đơn vị lên VQG trong thời gian tới, với sự tham gia sâu rộng của người dân địa phương.
PV: Ông có đề xuất nào về chính sách, nguồn lực để đảm bảo việc Mường Nhé trở thành VQG vừa thực chất, vừa bền vững?
Ông Diệp Văn Chính: Để đảm bảo việc chuyển đổi Khu DTTN Mường Nhé thành VQG được triển khai một cách thực chất, bền vững và hiệu quả, cần thiết phải có những chính sách mang tính đột phá về nhân sự, cơ chế tài chính, quyền hạn, cũng như huy động sự hỗ trợ từ cấp trên và các tổ chức trong nước, quốc tế. Một số đề xuất cụ thể như sau:
Cần chính sách nhân sự, phụ cấp đặc thù: Hiện nay, do điều kiện làm việc khó khăn, địa bàn rộng, phức tạp và xa trung tâm, việc thu hút và giữ chân đội ngũ cán bộ chuyên môn chất lượng cao là thách thức lớn. Do đó, cần áp dụng cơ chế phụ cấp ngoài lương cho viên chức tại các Ban Quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Khoản phụ cấp được sử dụng từ nguồn thu, nguồn ngân sách cấp tùy thuộc vào mức độ tự chủ tài chính của từng loại hình đơn vị nhưng sẽ góp phần thiết thực giúp cán bộ yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với nghề, tạo nền tảng ổn định tổ chức khi chuyển đổi sang mô hình VQG…
Lực lượng chức năng thả cá thể thú trở lại với môi trường sống tự nhiên
Tăng cường cơ chế, quyền hạn và chế độ cho lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng: Cần nâng cao quyền hạn thực tế của lực lượng chuyên trách phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ rừng tại chỗ, đặc biệt trong công tác tuần tra, lập hồ sơ ban đầu, giám sát cộng đồng. Áp dụng chế độ phụ cấp đặc thù tương tự lực lượng kiểm lâm chuyên ngành, để bảo đảm công bằng và tạo động lực công tác lâu dài.
Chính sách, chương trình mục tiêu cấp quốc gia dành riêng cho vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn: Kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành liên quan xây dựng một chương trình mục tiêu quốc gia hoặc đề án chuyên biệt cho các Khu DTTN chuyển đổi lên Vườn quốc gia ở vùng sâu, vùng xa như Mường Nhé. Nội dung hỗ trợ bao gồm: Đầu tư hạ tầng kỹ thuật bảo tồn, phục vụ du lịch sinh thái – giáo dục môi trường; Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực bảo tồn chuyên sâu, có kiến thức về rừng, kiến thức bản địa, du lịch và công nghệ; Hỗ trợ các mô hình sinh kế bền vững gắn với bảo vệ rừng và giảm áp lực lên tài nguyên rừng.
Huy động các nguồn lực liên kết - đa ngành - đa đối tác: Cần có sự quan tâm, hỗ trợ từ các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức quốc tế (như IUCN, WWF…), các cơ sở nghiên cứu, viện trường đại học, để hỗ trợ tư vấn kỹ thuật, tài chính, tập huấn và truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng.
Bướm phượng cánh liền tại Khu DTTN Mường Nhé
Đầu tư nâng cao năng lực, kỹ năng số và truyền thông hiện đại: Đề xuất đầu tư các chương trình đào tạo dài hạn cho đội ngũ cán bộ, viên chức về: Chuyển đổi số trong giám sát tài nguyên rừng; Kỹ năng truyền thông số, vận hành các nền tảng trực tuyến phục vụ quản lý và quảng bá du lịch sinh thái; Sử dụng công nghệ (GPS, phần mềm SMART…) trong tuần tra, giám sát và báo cáo dữ liệu.
PV: Từ góc độ người quản lý, ông kỳ vọng việc nâng hạng Khu DTTN Mường Nhé thành VQG sẽ giúp bảo vệ và phát triển các giá trị đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng như thế nào trong thời gian tới?
Ông Diệp Văn Chính: Từ góc độ người quản lý, tôi kỳ vọng việc nâng hạng Khu DTTN Mường Nhé thành VQG sẽ mở ra một giai đoạn phát triển mới, chuyên nghiệp hơn trong công tác bảo vệ và phát huy các giá trị đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng đặc dụng vùng biên giới cực Tây Tổ quốc.
Trước hết, khi trở thành VQG, khu rừng sẽ có điều kiện tiếp cận đầy đủ hơn về cơ chế chính sách, nguồn lực đầu tư, bộ máy tổ chức và thẩm quyền quản lý, từ đó nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ bảo tồn theo đúng quy chuẩn quốc gia.
Thứ hai, việc nâng hạng sẽ tạo cơ hội để tăng cường điều tra, nghiên cứu chuyên sâu hoặc nghiên cứu bổ sung về các loài động thực vật quý hiếm, loài đặc hữu, các hệ sinh thái đặc trưng vùng núi cao, nhờ đó có căn cứ để lập kế hoạch bảo tồn có trọng tâm, đồng thời phát hiện và ngăn ngừa các mối đe dọa (như suy thoái sinh cảnh, xâm lấn sinh vật ngoại lai, biến đổi khí hậu...).
Thứ ba, mô hình VQG cho phép gắn kết bảo tồn với phát triển sinh kế bền vững và du lịch sinh thái có kiểm soát, từng bước cải thiện sinh kế cho người dân vùng đệm, giảm áp lực khai thác rừng tự nhiên. Đây cũng là nền tảng quan trọng để lan tỏa nhận thức và trách nhiệm bảo vệ rừng đến cộng đồng dân cư địa phương.
Cuối cùng, việc trở thành VQG sẽ giúp Mường Nhé có điều kiện hội nhập, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học, tranh thủ các nguồn tài trợ kỹ thuật, tài chính, tạo động lực phát triển vùng biên gắn với bảo vệ chủ quyền và an ninh sinh thái, đa dạng sinh học.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Phạm Đình (Thực hiện)