Banner trang chủ
Thứ Ba, ngày 26/08/2025

Xây dựng nông thôn mới, nông thôn hiện đại: Kinh nghiệm thực tiễn từ Trung Quốc và giải pháp cho Việt Nam

26/08/2025

    Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) bền vững của mọi quốc gia. Đây không chỉ là yếu tố hỗ trợ phát triển nông thôn mà còn là nền tảng duy trì ổn định chính trị, bảo đảm an ninh - quốc phòng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng như BVMT. Bài viết khái quát thực tiễn xây dựng nông thôn mới (NTM), nông thôn hiện đại (NTHĐ) ở Trung Quốc, từ đó gợi mở giải pháp cho Việt Nam.

    1. Thực tiễn xây dựng NTM, NTHĐ tại Trung Quốc

    Nông nghiệp Trung Quốc có lịch sử phát triển lâu đời trên lãnh thổ rộng lớn, với điều kiện khí hậu, đất đai tự nhiên có sự khác biệt giữa các vùng, miền. Trồng trọt là lĩnh vực chiếm ưu thế chủ đạo trong ngành nông nghiệp, tiếp đến là chăn nuôi, chăn nuôi du mục, nuôi trồng thủy sản, đánh bắt cá và săn bắn. Sự tiến bộ của nông thôn trong lịch sử đã là nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến ổn định chính trị và an ninh đất nước. Từ đầu thời kỳ cách mạng, nông dân được coi là đồng minh đáng tin cậy của giai cấp vô sản và là lực lượng chủ lực của cách mạng Trung Quốc. Sau giải phóng, khu vực nông thôn tiếp tục đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa (CNH) đất nước. Sự phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã trở thành sứ mệnh lịch sử quan trọng của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.

    Tháng 11/2002, Đại hội lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức công bố chiến lược phát triển KT - XH đồng bộ ở cả thành thị và nông thôn, đánh dấu sự nhận thức sâu sắc của Đảng đối với công cuộc cải cách, phát triển nông thôn. Đảng Cộng sản Trung Quốc tập trung đặc biệt vào giải quyết vấn đề “Tam nông” (nông nghiệp, nông dân, nông thôn), thông qua miễn thuế nông nghiệp, trợ cấp sản xuất và xây dựng hệ thống hỗ trợ nông nghiệp toàn diện, xem đây là một trong những ưu tiên hàng đầu; thiết lập phương châm công nghiệp nuôi nông nghiệp và đẩy mạnh xây dựng NTM theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Mục tiêu là nâng cao hiệu quả thực hiện các dự án xã hội ở nông thôn; cung cấp ngân sách hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn; xây dựng chế độ y tế mới, chế độ bảo đảm sinh hoạt tối thiểu cho nông thôn, bao gồm miễn trừ toàn bộ học phí giai đoạn giáo dục nghĩa vụ cũng như việc phát triển hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng và nâng cao trình độ dịch vụ công cộng ở nông thôn.

    Công cuộc xây dựng NTM ở Trung Quốc chính thức được Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XVI (tháng 10/2005), trong đó chủ trương thúc đẩy xây dựng NTM XHCN với mục tiêu tăng cường sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, phát triển văn minh nông thôn và quản lý dân chủ. Đặc biệt, nhằm giải quyết sự mất cân bằng giữa thành thị và nông thôn, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI sẽ xây dựng đất nước trở thành một cường quốc hiện đại hóa (HĐH) XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp, Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2017 đã đề xuất thực hiện Chiến lược “Chấn hưng nông thôn”. HĐH ở đây là một tiến trình toàn diện, tổng thể, tức là chỉ sự phát triển đồng bộ của CNH kiểu mới, thông tin hóa, đô thị hóa, HĐH nông nghiệp. Thực hiện Chiến lược chấn hưng nông thôn, Trung Quốc đã đưa ra nguyên tắc, yêu cầu tổng thể và con đường cải cách của phát triển nông nghiệp nông thôn, vì thế nó trở thành biện pháp chiến lược thúc đẩy HĐH nông nghiệp nông thôn, xây dựng thành công toàn diện cường quốc HĐH XHCN [1]. Quyết sách này góp phần vào công tác “nông nghiệp, nông thôn và nông dân”, được xem là nhiệm vụ lịch sử to lớn, quyết định thắng lợi trong việc xây dựng xã hội cường thịnh về mọi mặt của đất nước XHCN hiện đại. Đó chính là khởi điểm để làm tốt công tác xây dựng “nông nghiệp, nông thôn và nông dân” trong thời kỳ mới, hướng đến phát triển nông thôn đạt tới công nghiệp thịnh vượng, hệ sinh thái tốt, nông thôn văn minh, quản trị hiệu quả và đời sống sung túc. Từ năm 2017 - 2021, Chiến lược đã giúp Trung Quốc hoàn thành thắng lợi giai đoạn “chống đói nghèo” để bước vào giai đoạn “hồi sinh nông thôn”. Nhờ hàng loạt chính sách hỗ trợ, đầu tư của Chính phủ vào công nghệ và cơ sở hạ tầng nông thôn, làn sóng dịch chuyển dân cư ở Trung Quốc có xu hướng đảo ngược, khi ngày càng có nhiều “nông dân mới” - chủ yếu là thanh niên có trình độ học vấn cao, nhiều ý tưởng và kỹ năng mới, chuyển từ thành phố về nông thôn. Đáng chú ý, để giữ chân người trẻ, nhiều vùng nông thôn Trung Quốc còn chú trọng đầu tư xây dựng dịch vụ công tiện lợi. Phòng khám sức khỏe, phòng tập thể dục, dịch vụ chăm sóc trẻ em, người già, thư viện, bảo tàng... mọc lên khắp nơi, tạo sức sống mới cho người dân khu vực nông thôn, hướng đến xây dựng NTHĐ.

Chiến lược “chấn hưng nông thôn” của Trung Quốc đã góp phần kiến tạo một vùng NTM văn minh

    Các giai đoạn mấu chốt phát triển NTM, NTHĐ tại Trung Quốc được chia ra làm 4 giai đoạn: (i) Từ sau giải phóng đến khi thành lập Công Xã Nhân Dân: Chuyển từ nền kinh tế tiểu nông sang kinh tế tập thể. Trong giai đoạn này đã xây dựng được cơ sở hạ tầng và cơ sở sản xuất kinh tế có quy mô lớn do chuyển từ hình thức cá thể sang hình thức tổ chức tập thể; (ii) Từ Công Xã Nhân Dân cho đến những năm 1990: Với phong trào “đại nhảy vọt” và “phong cách cộng sản” đã có sự thay đổi quan trọng từ hệ thống thủy lợi nông nghiệp đến phương thức sản xuất, cũng như cách thức thực hiện phúc lợi xã hội và dịch vụ công cộng. Điều này đã làm thay đổi cơ bản phương thức quản lý truyền thống dựa trên cá thể hóa, gia đình và dòng tộc ở khu vực nông thôn; (iii) Từ cuối những năm 1990 - 2012, Chính phủ Trung Quốc tích cực đầu tư cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn; xuất hiện Chương trình “Làng làng kết nối”, bao gồm giao thông, bưu chính viễn thông, điện, nước… thực hiện được nhiều dự án lắp đặt trực tiếp theo quy hoạch cụ thể tới từng thôn, đến từng nhà và các hoạt động xóa đói, giảm nghèo do Chính phủ tài trợ, kéo dài đến khi Chương trình Phát triển đô thị nông thôn đồng bộ ra đời. Đường xá được xác định đóng vai trò nền tảng, là mạch máu kết nối làng với bên ngoài, duy trì sự tương tác giữa dân cư, ngành nghề, xã hội, văn hóa và thế giới, giúp cho làng trở thành một cơ thể sinh thái bền vững, khỏe mạnh, đồng thời là cấu trúc xương sống của không gian bên trong làng; (iv) Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc đã từng bước thực hiện từ việc tập trung vào xóa đói, giảm nghèo đến xây dựng “nông thôn xinh đẹp”, tiếp đến là “chấn hưng nông thôn” [2]. Năm 2021, Trung Quốc tuyên bố xóa bỏ tình trạng nghèo tuyệt đối; khu vực nông thôn được tăng cường đầu tư.

    Khi quá trình hồi sinh nông thôn tiếp tục tiến triển ở Trung Quốc, cơ sở hạ tầng internet nhanh chóng mở rộng đến cả những vùng hẻo lánh. Tháng 1/2019, Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc phối hợp cùng Văn phòng Ủy ban An ninh mạng và Công nghệ thông tin Trung ương ban hành Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn số giai đoạn 2019 - 2025, đặt mục tiêu chuyển đổi thông minh toàn diện về tài nguyên, sản xuất, dịch vụ công và quản trị. Cùng thời gian này, Đề cương Chiến lược phát triển “Làng số” cũng được công bố với mục tiêu hoàn tất quá trình số hóa nông thôn vào giữa thế kỷ XXI [3]. Trong khuôn khổ Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 (giai đoạn 2021 - 2025), Chính phủ Trung Quốc xác định nông nghiệp thông minh là một hợp phần cấu thành của nông nghiệp hiện đại, hướng tới tăng cường năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh thông qua ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu lớn, đồng thời, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc và phát triển thương hiệu nông sản [4]. Mặc dù xuất phát điểm lạc hậu, ngành nông nghiệp Trung Quốc đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, phát triển phương thức đầu tư công - tư (PPP) và tích cực ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ (KH - CN) hiện đại vào sản xuất. Cuối năm 2022, số người sử dụng internet khu vực nông thôn Trung Quốc đã vượt quá 300 triệu người. Theo Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, sự phát triển vũ bão của thương mại điện tử cũng là giải pháp đưa doanh số bán lẻ trực tuyến ở khu vực nông thôn tăng lên 2,49 nghìn tỷ nhân dân tệ vào năm 2023. Dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia cho thấy, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn đạt 21.691 nhân dân tệ vào năm 2023, tăng 7,6% so với năm 2022.

    Đặc biệt, đầu tháng 2/2024, Trung Quốc công bố “Văn kiện Trung ương số 1”, nêu rõ ưu tiên thúc đẩy toàn diện quá trình hồi sinh nông thôn trong năm, đồng thời kêu gọi nỗ lực tăng cường vai trò của việc phát triển và ứng dụng KH - CN trong tái thiết nông thôn. Đây cũng là Văn kiện lần đầu tiên đề xuất thực hiện các dự án chất lượng cao cho thương mại điện tử; thúc đẩy xây dựng cơ sở phát sóng trực tiếp về thương mại điện tử cấp quận và phát triển hoạt động bán hàng trực tuyến của đặc sản địa phương ở nông thôn. Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, tỷ lệ đóng góp của KH - CN vào nông nghiệp của quốc gia đạt 62,4% (năm 2022) và vượt mức 63% (năm 2023); tỷ lệ cơ giới hóa trong trồng trọt, thu hoạch đạt hơn 73%; nhiều công nghệ như Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) đang ngày càng phổ biến [5].

    Nhờ những quyết sách đúng đắn, môi trường sống ở khu vực nông thôn Trung Quốc đã có bước chuyển mình đáng khích lệ, tỷ lệ người dân sử dụng nhà vệ sinh hợp vệ sinh đạt khoảng 75%; hơn 90% số thôn, xã đã có hệ thống thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt; tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý ngày càng cao... Làng sinh thái không các-bon được xây dựng dựa trên nhu cầu sản xuất và đời sống mới của người dân nông thôn hiện đại, với giá trị cốt lõi là “xanh, tiết kiệm, sinh thái thân thiện, hòa hợp giữa người và đất, cùng xây dựng, chia sẻ”. Làng đã tích hợp, thúc đẩy ba hệ thống xanh “năng lượng xanh bền vững; môi trường sống xanh và thân thiện; lối sống, sản xuất xanh thấp các-bon”, tạo nên một mô hình phát triển nông thôn với đặc trưng “xanh, tiết kiệm, năng suất cao, chất lượng tốt”, tận dụng tối đa năng lượng mặt trời, kết nối với các điểm sạc ô tô điện trong bãi đậu xe, giảm bớt dấu chân của xe dầu trong vùng quê; sử dụng phương pháp lên men sinh học để xử lý rơm rạ, lá khô, rác thải hữu cơ, phụ phẩm nông nghiệp thành phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp thông qua hệ thống vệ sinh sinh thái.

    Bên cạnh đó, Trung Quốc đã xây dựng được nền kinh tế số ở nông thôn, củng cố nền tảng thực tế cho sự thịnh vượng chung của nông thôn và nông nghiệp, dẫn dắt nông thôn từ “vẻ đẹp sinh thái” đến “vẻ đẹp thịnh vượng”: Phát triển mô hình du lịch nông thôn “nông gia lạc” và đưa vào các mô hình kinh tế mới như nhà nghỉ cao cấp, thương mại điện tử tài chính, từ đó xây dựng ngành du lịch nghỉ dưỡng nông thôn kết hợp các hoạt động thu hái nông sản. CNH nông thôn không chỉ tập trung vào phát triển công nghiệp chế biến nông sản mà còn phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ mới dựa trên lợi thế tài nguyên, đặc sản địa phương, tạo ra chuỗi giá trị ngành nghề đa dạng, bền vững. Qua mô hình phát triển “xanh + nông nghiệp văn hóa du lịch”, làng đã phát triển nền kinh tế tập thể, với quyết tâm xây dựng “Khu thực hành chung sống thịnh vượng giữa thành thị và nông thôn”. Phát triển thành phố nhỏ trong làng là cải cách toàn diện trong công tác chấn hưng nông thôn, hòa nhập giữa thành thị với nông thôn. Ngoài ra, các ngôi làng truyền thống được bảo tồn hiệu quả, tổng cộng có 8.155 làng được đưa vào danh mục bảo tồn làng truyền thống của quốc gia và đã thực hiện việc bảo vệ có chỉ dẫn; 16 tỉnh đưa 5.028 làng vào danh sách bảo tồn làng truyền thống cấp tỉnh; bảo tồn 556.000 ngôi nhà truyền thống; bảo tồn, phát triển 5.965 di sản văn hóa phi vật thể cấp tỉnh trở lên; thúc đẩy 5.518 làng xây dựng lịch sử và biên niên sử làng, hình thành nên cụm di sản văn hóa nông nghiệp lớn nhất thế giới [6]. Cấu trúc truyền thống của làng được giữ gìn, tạo khung cảnh làng quê mang đậm nét truyền thống và giàu tính thẩm mỹ; vật liệu xây dựng được lựa chọn phù hợp, tạo dựng không khí nông thôn đặc trưng…

    Có thể thấy, xây dựng NTM không chỉ mang ý nghĩa quan trọng mà còn được coi là biện pháp thiết yếu để thực hiện quan điểm phát triển khoa học, bảo đảm thuận lợi cho tiến trình HĐH đất nước. Đây được xem là nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp xây dựng xã hội khá giả, toàn diện, đồng thời là động lực lâu dài bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững và ổn định kinh tế của Trung Quốc.

    3. Đề xuất giải pháp cho Việt Nam

    Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) về xây dựng NTM tại Việt Nam bắt đầu triển khai từ năm 2010, trải qua 15 năm thực hiện với 2 giai đoạn (2010 - 2020 và 2021 - 2025) theo quyết định của Thủ tưởng Chính phủ, đến nay, Chương trình đã đạt nhiều thành quả quan trọng, góp phần thay đổi diện mạo khu vực nông thôn, chuyển từ phát triển về số lượng sang nâng cao chất lượng mang tính đồng bộ và từng bước hiện đại hơn; nhận thức của người dân chuyển từ trông chờ, thụ hưởng sang trực tiếp tham gia, coi xây dựng NTM là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Tính đến tháng 6/2025, cả nước có 6.058/7.696 xã (tương đương 78,7%) đạt chuẩn NTM, hoàn thành 98,4% mục tiêu giai đoạn 2021 - 2025, trong đó, 2.567 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 743 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; có 329 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM; 48 huyện đạt chuẩn NTM nâng cao; 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn NTM; 12 tỉnh được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM, tăng 8 tỉnh so với cuối năm 2021; 12 đơn vị cấp huyện sau khi đạt chuẩn NTM đã phát triển, nâng cấp thành đô thị, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, nâng cao giá trị và thu nhập cho cư dân. Đáng chú ý, 1.508 thôn, bản đặc biệt khó khăn đã được công nhận đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ 43% [7]. Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) trở thành điểm nhấn đột phá thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Tính đến tháng 2/2025, cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch phát triển sản phẩm OCOP; 16.543 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên và 8.924 chủ thể OCOP được công nhận; hệ thống HTX, tổ hợp tác tiếp tục được củng cố, phát triển với khoảng 22.162 HTX nông nghiệp đang hoạt động, triển khai được 10.587 dự án hỗ trợ sinh kế với trên 205.585 hộ dân tham gia; 134.000 lao động được kết nối việc làm sinh kế. Giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp năm 2024 đạt 115,4 triệu đồng/ha (tăng 1,1 lần với năm 2020). Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2024 đạt 54,07 triệu đồng/người/năm (tăng 28,7% so với năm 2020); tỷ lệ hộ nghèo đa chiều khu vực nông thôn năm 2024 còn khoảng 3,1%, giảm 4,0% so với năm 2020… [8].

Xây dựng NTM được xem là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho người dân nông thôn Việt Nam

    Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương trình MTQG về xây dựng NTM tại Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện, một số vùng miền trên cả nước, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, tỷ lệ đạt chuẩn NTM chưa cao (miền núi phía Bắc có 54,2% xã đạt chuẩn NTM và 4 tỉnh có tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM dưới 30%; khu vực Tây Nguyên có 63,8% xã đạt chuẩn NTM); một số huyện nghèo không có xã NTM; 3 tỉnh chưa có đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn NTM. Mặt khác, ở nhiều vùng vẫn còn tình trạng đầu tư thiếu đồng bộ, chất lượng một số công trình hạ tầng thiết yếu sau khi đạt chuẩn, nhất là giao thông nông thôn bị xuống cấp nghiêm trọng do không được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên; tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch tập trung mới đạt 55%; đời sống văn hóa tinh thần và phúc lợi xã hội cho người dân tuy được quan tâm, nâng cao, song vẫn có sự chênh lệch giữa các vùng miền, vùng sâu, vùng cao, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

    Từ thực tế nêu trên, Chương trình MTQG về xây dựng NTM ở Việt Nam giai đoạn tới cần bám sát Nghị quyết của Đảng và Chính phủ cũng như yêu cầu khách quan cuộc sống của cư dân nông thôn để nâng cao chất lượng theo hướng phát triển bền vững, với quan điểm NTM có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc. Bên cạnh đó, Chương trình phải được nâng lên một tầm cao mới theo hướng xây dựng NTM hiện đại, có sự phát triển đa dạng về kinh tế; hạ tầng kết nối đồng bộ, hiện đại; đảm bảo môi trường bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và chia thành hai giai đoạn: (i) Từ năm 2026 - 2035, tập trung hướng đến mục tiêu “nông thôn phát triển toàn diện”, có kết cấu hạ tầng KT - XH đồng bộ, hiện đại. Giai đoạn này cần hoàn thiện quy hoạch phát triển nông thôn phù hợp với quy hoạch tỉnh và quốc gia, nhằm phát huy lợi thế vùng, miền; rà soát, bổ sung quy hoạch các khu chức năng thúc đẩy phát triển nông thôn như công nghiệp chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, các hình thức kinh doanh mới (ngành nghề dịch vụ logistic, du lịch nông thôn, đặc sản OCOP…) để phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, miền; (ii) Từ năm 2036 - 2045 hướng đến xây dựng “NTHĐ, có điều kiện sống tiệm cận với đô thị, môi trường sống Xanh - Sạch - Đẹp, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo vững chắc”. Phấn đấu đến năm 2030 thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng gấp 2,5 lần so với năm 2020; không còn hộ nghèo theo chuẩn đa chiều và duy trì giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều bình quân 1 - 1,5%/năm, xã nghèo giảm ít nhất 3%/năm; ít nhất 80% xã đạt chuẩn nông thôn, trong đó 35% xã đạt chuẩn nâng cao, 10% xã đạt chuẩn NTM hiện đại. Đến năm 2035, phấn đấu 90% xã đạt chuẩn NTM, 50% xã đạt chuẩn nâng cao và 25% đạt chuẩn NTHĐ; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều toàn quốc giảm xuống dưới 1% [7]. Mục tiêu cao nhất là phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, lấy nông nghiệp sinh thái - nông dân văn minh - NTHĐ làm trụ cột.

    Mặt khác, phải nhấn mạnh vai trò dẵn dắt “vốn mồi” của Nhà nước trong việc huy động nguồn lực xã hội, khuyến khích hợp tác công - tư. Quá trình thực hiện phải giải phóng từ cơ chế, chính sách, thể chế, tháo gỡ mọi điểm nghẽn, biến thể chế thành lợi thế cạnh tranh; thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau; không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội, môi trường ở nông thôn để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; phải có công cụ ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm. Tinh thần “nói đi đôi với làm” phải được phát huy tối đa, đã cam kết thì phải thực hiện hiệu quả, đã nói, đã làm, đã thực hiện thì phải có sản phẩm “cân, đong, đo, đếm” được; phải để người nông dân được hưởng lợi trực tiếp từ thành quả mà Đảng, Nhà nước mang lại. Đây là những vấn đề mang tính chiến lược đến năm 2045 để nông nghiệp, nông thôn vươn mình cùng đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

    Để đạt mục tiêu cho từng giai đoạn cũng như cả quá trình, Việt Nam cần huy động hệ thống chính trị thực hiện “4 đẩy mạnh”: (i) Hoàn thiện thể chế để nông dân là trung tâm, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng; (ii) Phát triển hạ tầng chiến lược toàn diện, xanh, bền vững; (iii) Xây dựng con người mới, nông dân mới thích ứng với cuộc Cách mạng công nghệ và hội nhập toàn diện; (iv) Đa dạng hóa sản phẩm, chuỗi cung ứng, thị trường xuất khẩu, tận dụng cơ hội từ những thị trường tiềm năng. Đặc biệt, Chương trình MTQG về xây dựng NTM cần lấy người dân sống ở nông thôn là chủ thể, trọng tâm phát triển, được tiếp cận bình đẳng với mọi nguồn lực phát triển (vốn, đất, nước, năng lượng, khoa học nghệ); các dịch vụ cơ bản, phúc lợi xã hội (dinh dưỡng, y tế, giáo dục, thể thao, văn hóa, thông tin, giao thông…); có điều kiện nắm bắt cơ hội (học tập, làm việc, thị trường…). Trong đó nhấn mạnh “3 tiên phong”: (i) Thoát nghèo, làm giàu chính đáng; (ii) Xây dựng hình mẫu nông dân văn minh, sống trách nhiệm; (iii) Sản xuất xanh, chuyển đổi số, đặc biệt là tham gia Phong trào “Bình dân học vụ số”, tiến tới công dân số trong nền kinh tế số.

    Kết luận: Nông nghiệp, nông dân và nông thôn đóng vai trò quan trọng và chiến lược trong quá trình phát triển KT - XH bền vững ở mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đây không chỉ là yếu tố hỗ trợ phát triển nông thôn mà còn là nền tảng duy trì ổn định chính trị, bảo đảm an ninh - quốc phòng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng như BVMT. Công cuộc xây dựng NTM, NTHĐ không chỉ đơn thuần là một khái niệm mà là hướng phát triển toàn diện, đồng bộ, từng bước đưa nông thôn Việt Nam tiến về mục tiêu thỏa mãn các yêu cầu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế và môi trường, hướng đến phát triển bền vững trong thời kỳ kỷ nguyên số.

Đào Thị Hương - Gia Linh

    Tài liệu tham khảo:

    1. Ths. Nguyễn Thanh Giang, 2023. Chiến lược chấn hưng nông thôn - Con đường hướng tới Thịnh vượng chung của Trung Quốc. https://vietnamese.cri.cn/2023/04/11/ARTIbdyNxHKdoFe9MPaJEWMI230411.shtml.

    2. TS. Phạm Văn Bộ, 2025. NTM Trung Quốc: Đổi mới, phát triển và thịnh vượng bền vững. Truy cập tại https://tapchixaydung.vn/nong-thon-moi-trung-quoc-doi-moi-phat-trien-va-thinh-vuong-ben-vung-20201224000031275.html.

    3. 16, 18, 21. Dongpo Li & Teruaki Nanseki (2023).  Practice, Promotion and Perspective of Smart Agriculture in China. (in Nanseki, T. (eds). Agricultural Innovation in Asia, Springer, Singapo). https://doi.org/10.1007/978-981-19-9086-1_12.

    4. Outline of the People’s Republic of China 14th Five-Year Plan for National Economic and Social Development and Long-Range Objectives for 2035. https://cset.georgetown.edu/wp-content/uploads/t0284_14th_Five_Year_Plan_EN.pdf.

    5. Zhiwang, L. et al. (2024). Báo cáo xu hướng nông thôn Trung Quốc 2024.  https://www.chinareform.org.cn/2024/0119/39060.shtml.

    6. Tân Hoa Xã, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường bảo tồn thôn làng truyền thống.

    7. Ban Chỉ đạo Trung ương các Chương trình MTQG giai đoạn 2021 - 2025.

    8. Bộ NN&MT, 2025. Báo cáo tham luận tại Hội thảo tham vấn, lấy ý kiến góp ý định hướng Chương trình MTQG về xây dựng NTM và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026 - 2035, tổ chức ngày 13/6/2025 tại Hà Nội.

Ý kiến của bạn