Banner trang chủ
Thứ Năm, ngày 19/06/2025

Tọa đàm Khép kín vòng tuần hoàn nhựa sau tiêu dùng và Lễ công bố nghiên cứu phạm vi hệ thống đặt cọc hoàn trả phù hợp cho Việt Nam

16/06/2025

    Ngày 16/6/2025, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thông qua Chương trình Đối tác hành động quốc gia về nhựa (NPAP) Việt Nam cùng Đại sứ quán Na Uy đã tổ chức buổi Tọa đàm Khép kín vòng tuần hoàn nhựa sau tiêu dùng (PRC) và Lễ công bố nghiên cứu phạm vi hệ thống đặt cọc - hoàn trả (DRS) phù hợp cho Việt Nam.

    Tới dự sự kiện có ông Vũ Đức Đam Quang, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế; ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường; ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP Việt Nam; bà Hilde Solbakken, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam, Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội và hơn 130 đại biểu trực tiếp và trực tuyến đại diện các bộ, ngành, các đại sứ quán, doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ và các chuyên gia trong nước và quốc tế thuộc mạng lưới NPAP.

Thiết lập một hệ sinh thái tuần hoàn cho nhựa sau tiêu dùng

 

Ông Vũ Đức Đam Quang - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát biểu khai mạc buổi Tọa đàm

    Phát biểu khai mạc buổi Tọa đàm, ông Vũ Đức Đam Quang - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, trong bối cảnh ô nhiễm nhựa đang trở thành một trong những thách thức môi trường nghiêm trọng nhất của thế kỷ 21, việc cải thiện hệ thống quản lý vòng đời sản phẩm nhựa - đặc biệt là giai đoạn sau tiêu dùng – không còn là một lựa chọn, mà là trách nhiệm chung và cấp bách. Ở cấp độ toàn cầu, Việt Nam đang thể hiện cam kết mạnh mẽ trong tiến trình đàm phán Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa. Tuy nhiên, ông Vũ Đức Đam Quang cũng nhấn mạnh, ở cấp quốc tế, việc quản lý vòng đời sản phẩm nhựa chỉ có thể trở nên thực chất nếu được “chuyển hóa” thành hành động cụ thể ở cấp quốc gia - thông qua chính sách, thể chế và thị trường. Và chính tại điểm giao thoa giữa cam kết toàn cầu và thực thi quốc gia đó, Việt Nam cần một chiến lược tuần hoàn hóa ngành nhựa – nơi mà mô hình PCR và DRS không chỉ là giải pháp công nghệ, mà là chỉ dấu của một tư duy phát triển mới.

    Tại buổi Tọa đàm, các doanh nghiệp cũng đã chia sẻ lộ trình mở rộng việc sử dụng vật liệu nhựa sau tiêu dùng (PCR) trong bao bì. Theo đó, Unilever Việt Nam trình bày tham vọng đạt 100% hàm lượng PCR trong bao bì. PepsiCo Global vạch ra các chiến lược mở rộng việc áp dụng PCR trong bao bì đồ uống. Indorama Ventures Việt Nam chia sẻ cách tiếp cận trong việc phát triển các hệ thống khép kín cho chai nhựa PET sau tiêu dùng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã chia sẻ kinh nghiệm thực tế về các nỗ lực triển khai, rào cản và đề xuất để mở khóa cũng như thúc đẩy sáng kiến cho thị trường nhựa PCR tại Việt Nam.

Các diễn giả trao đổi tại buổi Tọa đàm       

    Tọa đàm là diễn đàn kết nối các giải pháp kỹ thuật, chiến lược doanh nghiệp và định hướng chính sách. Sự phối hợp chặt chẽ giữa khu vực tư nhân, cộng đồng quốc tế và quyết tâm của Chính phủ Việt Nam sẽ tạo thành nền tảng vững chắc để thiết lập một hệ sinh thái tuần hoàn cho nhựa sau tiêu dùng. Điều này không chỉ hướng đến mục tiêu môi trường, mà còn góp phần xây dựng một nền kinh tế linh hoạt, hiệu quả và phát triển bền vững.

Công bố nghiên cứu phạm vi hệ thống đặt cọc hoàn trả phù hợp cho Việt Nam

Đại sứ Na Uy tại Việt Nam, bà Hilde Solbakken tin tưởng mô hình DRS khả thi đối với Việt Nam và sẽ mang lại những lợi ích kinh tế xã hội và môi trường to lớn

    Nhằm tiếp tục củng cố chủ đề khép kín vòng tuần hoàn nhựa, một nghiên cứu tiền khả thi hệ thống đặt cọc hoàn trả (DRS) phù hợp cho Việt Nam đã được công bố tại sự kiện với mục đích giới thiệu một cơ chế hỗ trợ các giải pháp tuần hoàn do Đại sứ quán Na Uy tài trợ và được thực hiện bởi Eunomia Research & Consulting, Nghiên cứu dựa trên bằng chứng, rút ​​ra từ kinh nghiệm quốc tế, với các khuyến nghị cụ thể về những điều chỉnh đối với DRS cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Nghiên cứu được kỳ vọng mở ra một hướng đi mới trong nỗ lực quản lý rác thải nhựa và thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.

    DRS là mô hình theo đó người tiêu dùng mang trả lại các bao bì đồ uống dùng một lần sau khi sử dụng để nhận lại khoản tiền đặt cọc ban đầu. Điểm hoàn trả có thể là các cửa hàng bán lẻ, khách sạn, nhà hàng, quán cafe hoặc các điểm hoàn trả tập trung. Khoản tiền đặt cọc ban đầu tuy nhỏ nhưng được coi là động lực tài chính để người tiêu dùng mang trả lại bao bì đồ uống đã sử dụng thay vì xả vào môi trường. Chính vì thế, DRS sẽ giúp tăng tỷ lệ thu gom và cải thiện đáng kể chất lượng nhựa tái chế do bao bì được thu gom riêng, ít bị nhiễm bẩn.

    Đáng chú ý, DRS được coi là công cụ hỗ trợ thiết thực cho việc thực hiện các quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) được nêu trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2000 và năm 2024. Cụ thể là thay vì xây dựng quy trình thu gom riêng, các doanh nghiệp sản xuất và phân phối đồ uống có thể tham gia hệ thống thu gom tập trung nhờ DRS qua đó tăng tính minh bạch, tối ưu chi phí và đảm bảo tỷ lệ thu hồi bao bì theo quy định pháp luật.

    DRS đã được kiểm chứng là một giải pháp hiệu quả giúp đạt được tỷ lệ thu gom để tái chế rất cao đối với các bao bì đồ uống dùng một lần. Hiện có hơn 40 vùng lãnh thổ ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, Trung Đông và châu Đại Dương đã áp dụng hệ thống DRS cho các loại bao bì đồ uống dùng một lần. Tuy nhiên, hiện chưa có có quốc gia Đông Nam Á nào triển khai hệ thống này.

    Theo Báo cáo nghiên cứu, DRS hoàn toàn khả thi ở Việt Nam, song Việt Nam cần một hệ thống DRS riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội như thị trường đồ uống và cơ sở hạ tầng quản lý chất thải rắn trong nước. Vì thế, Báo cáo nghiên cứu đã có những thông số kỹ thuật chi tiết cho hệ thống DRS của Việt Nam cùng với đó là đề xuất các bước chuẩn bị cần thiết để đảm bảo hiệu quả thực tiễn khi áp dụng mô hình này.

    Dự kiến, nếu được thực thi hiệu quả, DRS sẽ chuyển hướng tới 77.000 tấn chất thải bao bì khỏi các bãi chôn lấp hàng năm, cắt giảm 265.000 tấn phát thải CO₂e, đồng thời tạo ra khoảng 6.400 việc làm chính thức và 9.600 cơ hội trong khu vực lao động tư do về rác thải. Nghiên cứu cũng chỉ ra thiết kế này phù hợp với chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam và góp phần tích cực vào các mục tiêu quốc gia về giảm ô nhiễm nhựa đại dương cũng như đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050.  

    Đại sứ Na Uy tại Việt Nam, bà Hilde Solbakken đã chia sẻ: Ở Na Uy, DRS đã giúp đạt được một trong những tỷ lệ tái chế chai nhựa cao nhất thế giới với trên 90%. Trên toàn châu Âu, các hệ thống tương tự đã chứng minh rằng thiết kế thông minh, kết hợp với sự tham gia mạnh mẽ của công chúng kể cả khu vực doanh nghiệp, mang lại kết quả môi trường thực sự và tích cực. Bà Hilde Solbakken tin rằng với những cam kết ngày càng nhiều về tính bền vững, Việt Nam có thể hưởng lợi rất nhiều từ các mô hình đã được chứng minh này, qua đó thúc đẩy tỷ lệ tái chế và giải quyết hiệu quả vấn đề ô nhiễm nhựa. Với nghiên cứu này, bà Hilde Solbakken mong muốn một DRS khả thi đối với Việt Nam và sẽ mang lại những lợi ích kinh tế xã hội và môi trường to lớn. DRS vừa có tiềm năng kích thích một ngành công nghiệp tái chế mới phát triển vừa tạo ra việc làm xanh, đồng thời giảm đáng kể lượng chai nhựa thải ra tự nhiên hoặc bãi chôn lấp.

Ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cam kết sẽ đồng hành cùng các đối tác để hiện thực hóa các khuyến nghị từ nghiên cứu này vào chính sách và thực tiễn của Việt Nam

    Hưởng ứng quan điểm này, ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, tại Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số, lượng chất thải nhựa phát sinh ngày càng lớn, đòi hỏi những giải pháp toàn diện và đột phá. Việc thúc đẩy PCR không chỉ giảm thiểu ô nhiễm mà còn mang lại giá trị kinh tế to lớn. Trong bối cảnh đó, DRS mang đến một hướng tiếp cận mới, tiềm năng và hiệu quả. DRS đã chứng minh được thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới trong việc tăng cường tỷ lệ thu gom, phân loại và tái chế vỏ chai, bao bì, đặc biệt là nhựa.

Toàn cảnh sự kiện

    Như vậy, có thể thấy, việc triển khai DRS tại Việt Nam không chỉ là nhu cầu nội tại, mà còn là cơ hội để bứt phá, dẫn đầu trong khu vực. Nếu thành công, đây sẽ là mô hình mẫu đầu tiên tại Đông Nam Á - khẳng định vai trò tiên phong của Việt Nam trong chuyển đổi xanh và tuần hoàn. Đặc biệt, DRS không chỉ là công cụ môi trường, mà còn là công cụ kinh tế và xã hội - tạo thêm việc làm, nâng cao chất lượng vật liệu tái chế, giảm gánh nặng môi trường, giảm phát thải khí nhà kính và hình thành những chuỗi giá trị mới trong nền kinh tế xanh.

Nguyễn Hằng

 

Ý kiến của bạn