Banner trang chủ
Thứ Năm, ngày 11/09/2025

Điện khí hóa giao thông để giải quyết ô nhiễm không khí

10/09/2025

    Ngày 10/9/2025, tại Trung tâm Hội nghị Almaz, Long Biên, Hà Nội, Quỹ Vì tương lai xanh (Tập đoàn VinGroup) tổ chức Tọa đàm “Chung tay bảo vệ bầu trời xanh - Thách thức và giải pháp”. Các đại biểu đã tập trung thảo luận về thực trạng ô nhiễm không khí tại Việt Nam và đề xuất hướng xử lý bền vững.

    Mở đầu Tọa đàm, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường - PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ chia sẻ về thực trạng phát thải hiện nay và những nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí. Theo đó,  kết quả nghiên cứu tác động của điện khí hóa giao thông tới giải quyết ô nhiễm không khí và thực hiện Đóng góp do Quốc gia tự quyết định (NDC) ở Việt Nam cho thấy, vấn đề ô nhiễm không khí ở nước ta ngày càng trở nên nghiêm trọng. Tại các đô thị lớn, tình trạng khói bụi và khí thải từ phương tiện giao thông chiếm tỷ trọng đáng kể, góp phần làm tăng tỷ lệ bệnh về đường hô hấp và tim mạch. Cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 đòi hỏi quốc gia phải có các bước đi mạnh mẽ để cắt giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông vận tải. Chính sách thuế ưu đãi cho xe điện đã được ban hành nhưng chỉ mang tính khuyến khích ban đầu, chưa đủ để hình thành một thị trường tự vận hành. Tiêu chuẩn Nhiên liệu các-bon thấp (Low Carbon Fuel Standard - LCFS) có thể đóng vai trò như công cụ điều tiết, đặt ra tiêu chuẩn phát thải các-bon cho mỗi đơn vị năng lượng và tạo áp lực kinh tế buộc doanh nghiệp phải thay đổi công nghệ hoặc chi trả chi phí cao hơn.

Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường - PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ báo cáo tại Tọa đàm

    LCFS được xem là một công cụ chính sách có khả năng tạo ra thay đổi căn bản trong cách tiếp cận đối với ô nhiễm không khí tại Việt Nam. Khác với những biện pháp truyền thống dựa trên trợ cấp ngân sách, LCFS vận hành như một cơ chế tài chính tự động và dựa trên thị trường. Cơ chế này buộc các nhà cung cấp nhiên liệu hóa thạch phải chịu trách nhiệm kinh tế cho lượng phát thải các-bon cao của họ, đồng thời khuyến khích sự phát triển của các loại nhiên liệu sạch như điện tái tạo, hydro xanh hay nhiên liệu sinh học. Khi đưa vào thực thi, LCFS có thể tạo ra một vòng luân chuyển tài chính liên tục, trong đó dòng vốn được chuyển từ bên gây ô nhiễm sang các nhà phát triển công nghệ sạch, từ đó thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình chuyển đổi năng lượng.

    Bài học từ California cho thấy, hệ thống LCFS có khả năng duy trì ổn định nhờ chỉ số Cường độ các-bon (CI) được tính toán dựa trên vòng đời toàn diện của nhiên liệu. Phương pháp này đánh giá phát thải không chỉ ở giai đoạn tiêu thụ mà còn trong toàn bộ chuỗi cung ứng, từ khai thác nguyên liệu, sản xuất, vận chuyển đến phân phối. Chỉ số CI càng thấp, loại nhiên liệu đó càng thân thiện với môi trường. Với cách tiếp cận khoa học này, việc so sánh giữa các loại nhiên liệu trở nên minh bạch và công bằng, qua đó khuyến khích phát triển những nguồn năng lượng ít phát thải.

    Một trong những yếu tố quan trọng giúp LCFS trở thành cơ chế hiệu quả là thị trường tín chỉ các-bon. Khi nhiên liệu có CI thấp hơn mức chuẩn, nhà cung cấp sẽ tạo ra tín chỉ. Khi nhiên liệu vượt mức chuẩn, doanh nghiệp phải bù đắp bằng cách mua tín chỉ từ các bên khác. Điều này tạo ra một thị trường năng động, trong đó các công ty phát triển công nghệ sạch có thêm nguồn thu đáng kể. Tại California, nhiều hãng xe điện như Tesla đã thu lợi lớn từ việc bán tín chỉ LCFS cho các nhà sản xuất ô tô truyền thống, qua đó có thêm nguồn vốn để mở rộng nghiên cứu, sản xuất và xây dựng hạ tầng. Dòng vốn này không phụ thuộc vào ngân sách công, mà đến trực tiếp từ sự dịch chuyển nguồn lực giữa các tác nhân thị trường. Nếu Việt Nam muốn áp dụng LCFS, cần tính đến một số thách thức riêng biệt. Lưới điện trong nước vẫn phụ thuộc nhiều vào than, khiến cho việc sử dụng xe điện chưa thực sự mang lại lợi ích giảm phát thải lớn. Ngoài ra, hạ tầng sạc còn hạn chế, gây khó khăn trong việc khuyến khích người dân chuyển đổi sang phương tiện chạy điện. Hai điểm yếu này có thể làm giảm hiệu quả của LCFS nếu chỉ áp dụng theo mô hình gốc. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh phù hợp để bảo đảm công cụ này phát huy đúng vai trò trong bối cảnh Việt Nam.

    Giải pháp được đề xuất là áp dụng cơ chế “Tín chỉ Xe điện Kép”. Đây là hình thức khuyến khích đặc biệt dành cho xe điện, trong đó ngoài tín chỉ cơ bản khi thay thế nhiên liệu hóa thạch, xe điện còn được nhận thêm tín chỉ bổ sung nếu góp phần thúc đẩy các mục tiêu chiến lược như mở rộng hạ tầng sạc hoặc đầu tư vào nguồn năng lượng tái tạo. Nhờ cơ chế này, giá trị kinh tế của xe điện sẽ tăng lên, tạo động lực thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng và năng lượng sạch. Khi lưới điện ngày càng chuyển dịch sang nguồn tái tạo, giá trị giảm phát thải của xe điện cũng sẽ gia tăng, tạo thành một vòng lặp tích cực cho toàn hệ thống. Ứng dụng LCFS tại Việt Nam còn có thể giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Doanh nghiệp buộc phải lựa chọn: hoặc tiếp tục sử dụng nhiên liệu carbon cao và chấp nhận chi phí lớn để mua tín chỉ, hoặc chuyển hướng sang phát triển công nghệ sạch để tự tạo ra tín chỉ và giảm chi phí. Chính cơ chế này thúc đẩy sự dịch chuyển tự nhiên trong thị trường mà không cần sự can thiệp trực tiếp bằng trợ cấp lớn từ ngân sách. Trong dài hạn, LCFS có thể trở thành trụ cột tài chính quan trọng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu giảm phát thải mà vẫn duy trì được tính cạnh tranh của nền kinh tế.

    Để LCFS vận hành minh bạch, Việt Nam cần xây dựng hệ thống đo lường, báo cáo và kiểm chứng đáng tin cậy, đặc biệt là các công cụ tính toán CI phù hợp với điều kiện nội địa. Cần có sự hợp tác giữa các cơ quan quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để đảm bảo dữ liệu đầy đủ, chính xác và cập nhật. Song song, cần thiết lập khung pháp lý rõ ràng về quyền sở hữu, mua bán và lưu trữ tín chỉ, từ đó tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong và ngoài nước.

    LCFS cũng mở ra cơ hội kết nối với các thị trường các-bon khu vực và quốc tế. Khi Việt Nam tham gia vào hệ thống tín chỉ các-bon xuyên biên giới, tín chỉ tạo ra trong nước có thể được bán cho các đối tác quốc tế, qua đó mang lại nguồn thu ngoại tệ và khuyến khích phát triển công nghệ sạch ở quy mô lớn. Để tận dụng cơ hội này, Việt Nam cần bảo đảm tính tương thích về chuẩn mực đo lường và phương pháp tính toán với các hệ thống quốc tế như của California, châu Âu hay các nước ASEAN.

    Cơ chế “Tín chỉ Xe điện Kép” và các chính sách hỗ trợ hạ tầng, LCFS sẽ tạo ra một hệ sinh thái khuyến khích đầu tư mạnh mẽ, đẩy nhanh tiến trình giảm phát thải trong giao thông vận tải và cải thiện chất lượng không khí đô thị. Nếu được triển khai tại Việt Nam, hệ thống tín chỉ xe điện có thể góp phần đáng kể vào mục tiêu Net Zero và giảm tải ô nhiễm ở đô thị. Áp dụng cơ chế tín chỉ sẽ tạo ra nguồn lực tài chính mới, giúp đầu tư vào hạ tầng sạc, khuyến khích tiêu dùng xe điện, đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách công. Nhà sản xuất trong nước có thể tận dụng cơ hội để phát triển sản phẩm mới, tiếp cận công nghệ toàn cầu và tham gia chuỗi giá trị xe sạch.

    Ngoài ra, Việt Nam cần xây dựng chính sách tín chỉ xe điện kép phù hợp điều kiện thị trường và năng lực công nghiệp trong nước. Cần đặt ra hai nhóm mục tiêu bắt buộc: giới hạn tiêu hao nhiên liệu trung bình của đội xe và tỷ lệ xe điện trong tổng sản lượng. Các doanh nghiệp đạt thành tích tốt hơn chuẩn sẽ được cấp tín chỉ. Những doanh nghiệp không đạt yêu cầu có thể mua tín chỉ để tránh bị xử phạt. Chính sách cần quy định rõ phương thức tính toán, phân bổ, chuyển nhượng và lưu trữ tín chỉ nhằm đảm bảo minh bạch và hiệu quả. Bên cạnh đó, cần phát triển hạ tầng pháp lý và kỹ thuật đồng bộ. Các thông số kỹ thuật của xe cần được kiểm định và báo cáo trung thực. Cơ quan quản lý phải xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, đảm bảo truy xuất được tín chỉ theo từng dòng xe, từng hãng, từng năm. Chuyển đổi số hoạt động quản lý sẽ giúp phát hiện gian lận, tránh thao túng thị trường tín chỉ. Có chế tài xử phạt rõ ràng đối với hành vi vi phạm để đảm bảo tính răn đe…

Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Thị Thiên Phương

mong muốn cần có sự đồng hành từ các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp,

tổ chức xã hội và cộng đồng để bảo vệ môi trường không khí

    Phát biểu tại Tọa đàm, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Thị Thiên Phương cho biết, với vai trò là cơ quan tham mưu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang tập trung hoàn thiện thể chế và chính sách, điển hình là việc trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045, đồng thời gấp rút hoàn thiện Lộ trình áp dụng quy chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông, trước mắt tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.

`Bên cạnh đó, Bộ cũng triển khai các hành động cấp bách như tăng cường năng lực quan trắc bằng thiết bị cảm biến, công khai chất lượng không khí trên các phương tiện truyền thông để người dân chủ động bảo vệ sức khỏe và ứng dụng thiết bị bay không người lái (drone) để phát hiện các nguồn phát thải. Đồng thời, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm cũng được tăng cường nhằm siết chặt quản lý, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để kiểm soát ô nhiễm một cách toàn diện.

TS. Lê Thái Hà, Giám đốc điều hành Quỹ Vì Tương lai xanh, Tập đoàn Vingroup

chia sẻ Chiến dịch “Cùng hành động vì bầu trời xanh” tại Tọa đàm

    Về nỗ lực chung tay giải quyết ô nhiễm môi trường không khí, Giám đốc điều hành Quỹ Vì Tương lai xanh Tập đoàn Vingroup TS. Lê Thái Hà cho biết, Quỹ Vì tương lai xanh cùng các Công ty thành viên và liên kết của Tập đoàn Vingroup đã chính thức khởi động Chiến dịch “Cùng hành động vì bầu trời xanh” từ ngày 10/9/2025. Chiến dịch được triển khai nhân Ngày Không khí sạch vì bầu trời xanh (7/9), Ngày Bảo vệ tầng ozone (16/9) - đồng thời tiếp nối sức lan tỏa từ chuỗi Chương trình “Thứ Tư Ngày xanh”. Với quy mô toàn quốc, Chương trình hướng tới nâng cao nhận thức cộng đồng, khuyến khích hành động thiết thực và truyền cảm hứng về một lối sống hài hòa, trách nhiệm với môi trường. Điểm nổi bật của Chiến dịch là chuỗi hoạt động được thiết kế theo bốn trụ cột: Gắn kết cộng đồng - Tiêu dùng xanh - Tri thức xanh - Tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải. Những mảng hành động được triển khai đồng bộ, toàn diện, tạo nên sức cộng hưởng mạnh mẽ và lan tỏa rộng rãi trong xã hội.

Các đại biểu tham dự Tọa đàm

    Đây không chỉ là một hoạt động cộng đồng, mà còn là đơn vị tiên phong của doanh nghiệp Việt trong nỗ lực chung tay giải quyết ô nhiễm không khí toàn cầu, bảo vệ tầng ozone và lan tỏa lối sống xanh. Chiến dịch sẽ góp phần bảo vệ bầu khí quyển nền tảng sự sống của nhân loại góp phần kiến tạo một tương lai xanh, bền vững cho các thế hệ mai sau.

Châu Loan

Ý kiến của bạn