Banner trang chủ
Thứ Bảy, ngày 06/07/2024

Tăng cường thực hiện Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Tài nguyên nước

05/07/2023

    Ngày 1/2/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/2023/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước (TNN). Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/3/2023, bãi bỏ Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật TNN. Nghị định bao gồm 5 Chương, 51 Điều quy định chi tiết một số khoản và Điều tại Luật TNN, trong đó Nghị định quy định chi tiết khoản 4, Điều 6; khoản 5, Điều 13; khoản 5, Điều 29; khoản 4, Điều 43; khoản 4, Điều 44; khoản 6, Điều 52; điểm e, khoản 1, Điều 72; khoản 3, Điều 72; khoản 2, Điều 73 Luật TNN về lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư và công khai thông tin trong khai thác, sử dụng TNN; điều tra cơ bản TNN; trông bù diện tích rừng bị mất và đóng góp kinh phí cho bảo vệ, phát triển rừng; chuyển nhượng quyền khai thác TNN; đăng ký, cấp giấy phép khai thác, sử dụng TNN; thăm dò, khai thác nước dưới đất; tổ chức lưu vực sông và việc điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông…

    Một số điểm mới của Nghị định số 02/2023/NĐ-CP

    Nghị định nêu rõ, tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép TNN phải đáp ứng các điều kiện: Đã hoàn thành việc thông báo, lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định; Có đề án, báo cáo phù hợp với quy hoạch về TNN, quy hoạch tỉnh, quy định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, quy hoạch chuyên ngành có liên quan đã được phế duyệt hoặc phù hợp với khả năng nguồn nước nếu chưa có các quy hoạch và quy định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất. Đề án, báo cáo phải do tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực theo quy định lập; thông tin, số liệu sử dụng để lập đề án, báo cáo phải bảo đảm đầy đủ, rõ ràng, chính xác và trung thực…

    Nghị định cũng quy định thời hạn của Giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt, nước biển có thời hạn tối đa là 15 năm, tối thiểu là 5 năm và được xem xét gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn tối thiểu là 3 năm, tối đa là 10 năm; Giấy phép thăm dò nước dưới đất có thời hạn là 2 năm và được xem xét gia hạn 1 lần, thời gian gia hạn không quá 1 năm. Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất có thời hạn tối đa là 10 năm, tối thiểu là 3 năm và được xem xét gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn tối thiểu là 2 năm, tối đa là 5 năm. Trường hợp tổ chức, cá nhân đề nghị cấp hoặc gia hạn giấy phép với thời hạn ngắn hơn thời hạn tối thiểu theo quy định nêu trên thì giấy phép được cấp hoặc gia hạn theo thời hạn đề nghị trong đơn.

    Căn cứ điều kiện của từng nguồn nước, mức độ chi tiết của thông tin, số liệu điều tra, đánh giá TNN và hồ sơ đề nghị cấp hoặc gia hạn giấy phép của tổ chức, cá nhân, cơ quan cấp phép quyết định cụ thể thời hạn của giấy phép. Trường hợp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép của tổ chức, cá nhân nộp trước ngày Giấy phép đã được cấp trước đó hết hiệu lực thì thời điểm hiệu lực ghi trong giấy phép được tính nối tiếp với thời điểm hết hiệu lực của giấy phép đã được cấp trước đó.

    Ngoài ra, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước thuộc trường hợp phải đăng ký theo quy định của Nghị định đã được cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt, nước biển theo quy định của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP được tiếp tục thực hiện đến hết thời hạn ghi trong Giấy phép. Sau khi Giấy phép được cấp hết hiệu lực, nếu tổ chức, cá nhân tiếp tục có nhu cầu khai thác, sử dụng nước thì thực hiện đăng ký theo quy định của Nghị định này. Đối với các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước đã được cấp Giấy phép khai thác, sử dụng TNN theo quy định của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP mà có sự thay đổi về thẩm quyền cấp phép theo quy định của Nghị định số 02/2023/NĐ-CP thì được tiếp tục thực hiện đến hết thời hạn ghi trong Giấy phép. Trước khi Giấy phép hết hạn, tổ chức, cá nhân phải nộp hồ sơ đề nghị cấp phép, trình cơ quan có thẩm quyền theo quy định.

    Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận đầy đủ, hợp lệ trước ngày Nghị định số 02/2023/NĐ-CP có hiệu lực vẫn được thực hiện thẩm định, xem xét cấp phép theo quy định tại Nghị định số 201/2013/NĐ-CP. Đối với tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước thuộc trường hợp đăng ký theo quy định tại điểm a, điểm b, khoản 1, Điều 17 của Nghị định, nếu có nhu cầu thực hiện việc đăng ký theo quy định của Nghị định thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét trả lại hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép. Đối với các dự án đã hoàn thành việc lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng TNN theo quy định tại Nghị định số 201/2013/NĐ-CP trước khi Nghị định số 02/2023/NĐ-CP có hiệu lực thì không phải thực hiện lấy lại ý kiến theo quy định tại Nghị định. Đối với các tỉnh, thành phố đã phê duyệt khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất theo quy định tại Thông tư số 27/2014/TT-BTNMT ngày 30/5/2014 của Bộ TN&MT thì tiếp tục thực hiện đàng ký theo quyết định đã phê duyệt cho đến khi rà soát điều chỉnh theo quy định của Nghị định này.

    Đảm bảo sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn TNN

    Nhằm triển khai thực hiện hiệu quả Nghị định số 02/2023/NĐ-CP, UBND TP. Hồ Chí Minh đã có văn bản chỉ đạo Sở TN&MT phối hợp với các cơ quan, địa phương liên quan rà soát, đôn đốc các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng TNN thuộc trường hợp phải đăng ký hoặc phải có Giấy phép khẩn trương thực hiện thủ tục đăng ký hoặc nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh, bình đẳng của pháp luật, tránh thất thoát tài nguyên và thất thu ngân sách nhà nước. Đồng thời, chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương liên quan triển khai thực hiện Nghị định đến các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng TNN trên địa bàn Thành phố đảm bảo kịp thời, hiệu quả, đúng quy định. Việc khai thác, sử dụng TNN không có giấy phép là vi phạm pháp luật về TNN và sẽ bị xem xét xử lý theo quy định.

    Sở TN&MT, UBND TP. Thủ Đức, các quận, huyện, phường, xã, thị trấn tổ chức thực hiện đăng ký và xác nhận đăng ký khai thác, sử dụng nước mặt, nước biển, khai thác, sử dụng nước dưới đất theo thẩm quyền quy định tại Điều 38, Điều 39, Nghị định số 02/2023/NĐ-CP và Quyết định số 4335/QĐ-UBND ngày 13/12/2022 của UBND Thành phố về ban hành danh mục, bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn Thành phố; lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng TNN theo trình tự quy định tại Điều 2, Nghị định số 02/2023/NĐ-CP.

    Sở NN&PTNT chủ trì, phối hợp với Sở TN&MT rà soát, đôn đốc các chủ quản lý, vận hành công trình thủy lợi thực hiện việc đăng ký hoặc cấp Giấy phép khai thác, sử dụng nước theo quy định của Nghị định số 02/2023/NĐ-CP. Trường hợp công trình thủy lợi đang khai thác, sử dụng TNN thuộc diện phải đăng ký theo quy định tại khoản 1, Điều 17 thì thực hiện đăng ký theo quy định tại Điều 39, Nghị định số 02/2023/NĐ-CP. Trường hợp công trình thủy lợi thuộc đối tượng phải có giấy phép theo quy định tại khoản 2, Điều 17 thì khẩn trương nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 32, Điều 35, Nghị định số 02/2023/NĐ-CP.

    Các đơn vị quản lý vận hành công trình thủy lợi, có tổ chức, cá nhân khác khai thác, sử dụng nước mặt trực tiếp từ hồ chứa, đập dâng thủy lợi, hệ thống kênh thủy lợi, để cấp cho các mục đích kinh doanh, dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp (bao gồm cả khai thác nước cho hoạt động làm mát máy, thiết bị, tạo hơi, gia nhiệt) mà đơn vị quản lý, vận hành công trình thủy lợi chưa được cấp phép khai thác, sử dụng nước mặt cho những mục đích nêu trên, yêu cầu các tổ chức, cá nhân lập, nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 32, Điều 35, Nghị định số 02/2023/NĐ-CP.

Trần Tân

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 3/2023)

Ý kiến của bạn