Banner trang chủ

Ngành Nông nghiệp Việt Nam: 80 năm xây dựng và phát triển cùng đất nước

03/09/2025

    Trong 80 năm xây dựng và phát triển, ngành nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội. Ngành nông nghiệp, người nông dân và khu vực nông thôn là chỗ dựa vững chắc mỗi khi có những cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế, xã hội và là trụ cột của đất nước. Trong mỗi giai đoạn, nông nghiệp luôn thể hiện sứ mệnh, vai trò vô cùng quan trọng và đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước. Đến nay, Việt Nam đã trở thành một cường quốc sản xuất và xuất khẩu nông sản trên thế giới. Nông nghiệp là nguồn thu nhập quan trọng cho gần 10 triệu hộ nông dân và hàng triệu các hộ kinh doanh, doanh nghiệp trên cả nước. Nông nghiệp góp phần quan trọng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống và góp phần quan trọng đảm bảo an ninh lương thực thế giới. Ngành nông nghiệp không ngừng phát triển và góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng thăm gian trưng bày

80 năm thành tựu của ngành Nông nghiệp và Môi trường tại Triển lãm thành tựu đất nước

“80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”

    Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám (1945-1954), nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh chống “giặc đói”. Sau khi miền Bắc giành được độc lập, chính quyền Việt Nam non trẻ đã phải đối phó với “giặc đói”, “giặc dốt”, và “giặc ngoại xâm”. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nạn đói, lũ lụt lớn, hạn hán kéo dài; một nửa số ruộng đất không canh tác được. Ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ cấp bách, đột xuất số một. Chính phủ kêu gọi nhân dân “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”; “gia tăng sản xuất”. Đồng thời, Chính phủ tổ chức đắp và củng cố những đoạn đê bị vỡ, sạt lở, thực hiện chủ trương gia tăng sản xuất với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng” tức là tận dụng mọi nơi, mọi chỗ có thể trồng trọt được; tích cực thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi trên cả nước, sản lượng lương thực đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 1945. Vào tháng 11/1946, Nhà nước chính thức cho phát hành giấy bạc Cụ Hồ trên phạm vi cả nước. Từ khi thực hiện thuế nông nghiệp, nguồn thu ngân sách được cải thiện đáng kể. Từ năm 1951, thuế nông nghiệp đã chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số thu ngân sách: năm 1951: 86,2%, năm 1952: 77%, năm 1953: 71%, năm 1954: 54,7%. Sau khi phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô và Trung Quốc), năm 1952, số thu ngân sách nhà nước đảm bảo được 78% số chi. Năm 1953, lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám, số thu ngân sách nhà nước vượt chi được 16%.

Giai đoạn 1955 -1975, nông nghiệp vừa đảm bảo đời sống nhân dân, vừa chi viện cho tiền tuyến,

góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

Ảnh: Tư liệu

 

    Giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước (1955 - 1975), nông nghiệp đóng góp vào phát triển kinh tế, xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đảm bảo an ninh lương thực miền Nam, góp phần quan trọng thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này, một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình, cuộc vận động cải cách ruộng đất năm 1956 đã chia 334.100 ha ruộng cho nông dân; xóa bỏ tàn dư chế độ phong kiến ở miền Bắc; nâng cao quyền làm chủ của nông dân. Nông nghiệp trong giai đoạn này góp phần quan trọng giải quyết được phần lớn nhu cầu về lương thực cho người dân và cho những chiến sỹ anh hùng trên tuyến đầu ngày đêm chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Năm tấn thóc để góp phần đánh Mỹ” được triển khai ở khắp miền Bắc nhằm đảm bảo lương thực cho tuyến đầu và điều này góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của đất nước. Từ 1958 - 1960, bình quân tổng sản phẩm xã hội tăng 14,1%. Năm 1970, công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất ở miền Bắc đã thu được kết quả. Nông nghiệp có một số tiến bộ. Sản lượng lương thực năm 1970 toàn miền Bắc đạt 5.278.900 tấn, tăng so với năm 1969 hơn nửa triệu tấn. Diện tích gieo trồng năm 1970 là 3.028.100 ha, tăng so với năm 1969 hơn 6 vạn ha. Năng suất lúa cả năm trên 1 ha ruộng hai vụ đạt 43,11 tạ. Tuy nhiên, xét về hiệu quả kinh tế thì sản xuất nông nghiệp tiếp tục giảm sút, không tương xứng với công sức của nông dân bỏ ra và ngân sách, vật tư, kỹ thuật mà Nhà nước đầu tư vào nông nghiệp. Vì sản xuất không đủ tiêu dùng, nên từ năm 1966 đến năm 1975 miền Bắc đã phải nhập trung bình mỗi năm một triệu tấn lương thực.

    Sau thống nhất đất nước đến trước “Đổi mới” (1976 - 1985): Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong ổn định, xây dựng đất nước. Thời kỳ này Nhà nước áp dụng mô hình Kinh tế Kế hoạch theo mô hình của Liên Xô, quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Ở miền Bắc, đơn vị sản xuất kinh doanh nông nghiệp chính ở nông thôn là các HTX nông nghiệp và nông trường quốc doanh. Các hình thức tổ chức này đã đóng góp tích cực trong thời kỳ vừa xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc. Sau hai kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và lần thứ ba (1981 - 1985), Việt Nam đã từng bước khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, năm 1979, Việt Nam không chỉ bị Mỹ và phương Tây cấm vận, đồng thời phải chống đỡ hai cuộc chiến tranh. Phía Nam đánh Pol Pot ở biên giới Campuchia, phía Bắc là cuộc chiến bảo vệ biên giới với Trung Quốc.

 

Đào kênh dẫn nước vào đồng ruộng thời hợp tác xã

Ảnh: Philip Jones GriffithsMagnumphoto

 

    Trước tình hình nông nghiệp giảm sút, hàng năm phải nhập khẩu và xin viện trợ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V năm 1981 đã nhấn mạnh mục tiêu đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và lương thực, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Từ bài học thành công của thử nghiệm tự phát ở Hải Phòng và xu thế lan rộng của mô hình “khoán chui”, ngày 13/01/1981 Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 100 CT/TW về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động trong hợp tác xã nông nghiệp,” đánh dấu bước đột phá trong tư duy đổi mới kinh tế. Đại hội V năm 1982, Đảng đề cập tới quan điểm về công nghiệp hóa nông nghiệp, xây dựng một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Ngày 14/12/1983, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 154-HĐBT về việc hoàn chỉnh công tác khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Ngày 27/3/980, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định về chính sách xây dựng các vùng kinh tế mới. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa II (tháng 6/1970), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã yêu cầu “Phải phát động một phong trào rộng lớn, nhằm hoàn chỉnh thủy nông ở những vùng đã có công trình”. Công tác hoàn chỉnh thủy nông thời kỳ này được Chính phủ quan tâm đặc biệt, chỉ sau nhiệm vụ quốc phòng. Trong giai đoạn 1977-1985, hầu hết các tỉnh Duyên hải Miền Trung, Tây Nguyên đều khởi công xây dựng các công trình thủy lợi vừa và lớn. Chỉ 5 năm sau giải phóng, toàn Đồng bằng sông Cửu Long đã đắp được 14 hệ thống đê ngăn mặn cho 650.000 hecta thuộc các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Minh Hải, Kiên Giang, Vĩnh Long.

    Tổng GDP trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 4,49%/năm. Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh lúa nước. Tuy nhiên mô hình làm ăn tập thể kiểu cũ đã không kích thích được lòng nhiệt tình của người lao động. Trong khi thực hiện tốt nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước, các HTX đảm bảo chưa đến 50% thu nhập cho xã viên. Vì vậy an ninh lương thực không đảm bảo, đời sống nhân dân rất khó khăn.

    Trong những năm trước đổi mới, những diễn biến vĩ mô bất lợi đã triệt tiêu động lực vượt khoán, sản xuất nông nghiệp lại đình trệ, thiếu lương thực trầm trọng ở nhiều nơi. Đất đai và tư liệu sản xuất vẫn nằm trong tay HTX, với cung cách quản lý cũ, bộ máy quản lý HTX quan liêu, mất dân chủ. Đất đai trong HTX không ổn định, dễ bị xáo trộn dẫn tới triệt tiêu động lực của người sản xuất. Phần lớn nông dân sống dưới mức đói nghèo (70-80%). Mức tăng trưởng nông nghiệp thấp, bình quân đạt 1,9%/năm, an ninh lương thực không đảm bảo, đời sống nhân dân rất khó khăn. Đứng trước thực tế đó, Hội nghị Trung ương 8 khóa V (1-7/6/85) đã quyết định dứt khoát xóa bỏ cơ chế kế hoạch tập trung sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Kết luận Bộ Chính trị (20/9/86) về thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, cho phép sở hữu các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý, xóa cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa…. Kinh tế hộ nông dân được mở đường phát triển kể từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988). Trong giai đoạn này với nhiều chính sách quan trọng, cởi trói, khơi thông nguồn lực, hội nhập quốc tế nên ngành nông nghiệp và kinh tế đất nước phát triển nhanh chóng.

Giai đoạn 1986 - 2010, nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, đảm bảo an ninh lương thực,

cải thiện đời sống nhân dân và thúc đẩy xuất khẩu

    Giai đoạn sau đổi mới (1986-2010): Nông nghiệp phát triển tốt, đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện đời sống, thúc đẩy xuất khẩu. Từ chỗ hàng năm phải nhập khẩu 600 nghìn đến 1 triệu tấn lương thực, năm 1989, Việt Nam đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo và liên tục xuất khẩu trong các năm tiếp theo đạt mức cao nhất là 4,5 triệu tấn vào năm 1999. Kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm 30-40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước. Thu nhập của nông dân tăng lên, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm bình quân 2%/năm. Giai đoạn này, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có nhiều thành công. Xu hướng chuyển đất lúa năng suất thấp sang nuôi thủy sản hoặc trồng các cây trồng khác có hiệu quả hơn. Chuyển đổi cây trồng hợp lý nên không những bảo đảm được an ninh lương thực trong nước và tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu gạo, mà còn dành quỹ đất và các nguồn lực khác để phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và cây trồng khác.

    Giai đoạn từ năm 2011 đến nay, nông nghiệp tái cơ cấu, chuyển đổi theo hướng nâng cao giá trị, phát triển bền vững đóng góp hiệu quả cho tăng trưởng chung và nâng cao thu nhập cho người nông dân. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, giá trị gia tăng trong toàn chuỗi, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp năm 2013. Ba nội dung quan trọng của Đề án là: (i) Khai thác và phát triển các sản phẩm có lợi thế; (ii) Phát triển chuỗi giá trị, gắn kết sản xuất với chế biến và kinh doanh; (iii) Đổi mới thể chế sản xuất, kinh doanh. Cùng với đó, rất nhiều chính sách khác được ban hành tạo điều kiện cho tổ chức lại sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển đổi nông nghiệp theo hướng xanh, trách nhiệm, bền vững. Ngành nông nghiệp đã thực sự phát triển mạnh đưa Việt Nam là cường quốc xuất khẩu nông sản trên thế giới. Cùng với đó, Chính phủ cũng ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2050. Ngoài ra Trung ương cũng ban hành nhiều nghị quyết quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông dân nông thôn, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết số 19-NQ/TW về Nông nghiệp nông dân nông thôn, Nghị quyết 18-NQ/TW "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao"; Nghị quyết 20-NQ/TW năm 2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. 

Giai đoạn 2011 - nay, nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế, đặc biệt trong những giai đoạn khó khăn

như đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn đảm bảo an ninh lương thực trong nước, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu

    Sau nhiều năm thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp, Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn và định hướng đúng đắn, cùng với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, chung lòng của toàn xã hội, sức sản xuất trong nông nghiệp đã được tăng lên rõ rệt, thể hiện ở sản lượng các mặt hàng nông sản đều tăng. Ngành nông nghiệp đã trở thành trụ đỡ cho nền kinh tế cả nước trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Ngay cả trong bối cảnh Covid-19 gây bao khó khăn, làm chao đảo nhiều nền kinh tế lớn, ảnh hưởng đời sống, an ninh lương thực rất nhiều quốc gia trên thế giới nhưng Việt Nam vẫn đảm bảo tốt nhu cầu lương thực trong nước mà còn góp phần quan trọng đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu.

    Nhờ điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như: Thủy sản, rau, hoa, quả nhiệt đới, các loại cây công nghiệp giá trị cao, đồ gỗ và lâm đặc sản mà kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản những năm qua có sự tăng trưởng ấn tượng. Năm 2020, nông sản là mặt hàng xuất khẩu nổi trội trong tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam, giá trị xuất khẩu đạt 41,2 tỷ USD. Năm 2024 con số này đã tăng trưởng nhanh chóng đạt 62,5 tỷ USD. Vị thế ngành nông nghiệp Việt Nam trên thế giới không ngừng cải thiện với rất nhiều mặt hàng đứng nhóm đầu về xuất khẩu như gạo, cà phê, tiêu, điều, thủy sản, lâm nghiệp.

    Những năm gần đây, nhất là sau khi thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2050, việc chuyển đổi sản xuất nông nghiệp Việt Nam bước sang giai đoạn mới theo hướng sinh thái, xanh, trách nhiệm, bền vững. Việc giảm phân thuốc hóa học, giảm đầu vào, áp dụng quy trình, tiêu chuẩn bền vững gắn với bảo vệ môi trường giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu ngày càng phát triển. Các mô hình nông nghiệp mới, đa giá trị không ngừng nhân rộng. Chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp ngày càng thấm sâu vào trong từng người nông dân, doanh nghiệp góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sản xuất, giá trị gia tăng. Chất lượng nông sản nâng cao, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, phi kỹ thuật của các thị trường khó tính nhất. Nông sản Việt Nam có mặt trên 200 thị trường nước ngoài và bắt đầu hình thành thương hiệu, chuỗi giá trị toàn cầu. Sự phát triển không ngừng của ngành nông nghiệp, vai trò trụ đỡ của ngành nông nghiệp đối với nền kinh tế đặc biệt trong những giai đoạn khủng hoảng càng khẳng định việc ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn là định hướng hoàn toàn đúng đắn và xác định nông nghiệp là lợi thế quốc gia, nông thôn không chỉ là địa bàn sống mà còn là khu vực kinh tế quan trọng, là nơi gìn giữ phát triển văn hóa, hồn cốt của dân tộc, là phên dậu quan trọng bảo đảm an ninh quốc phòng; nông dân là chủ thể và trung tâm của quá trình như trong Nghị quyết 19-NQ/TW đã thể hiện vai trò to lớn của ngành nông nghiệp nông thôn nông dân. Cũng như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946 Bác Hồ cũng đã viết ”nông dân giầu thì nước ta giầu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.

TS. Trần Công Thắng, TS. Trương Thị Thu Trang

Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 8/2025)

    Tài liệu tham khảo:

    1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (2021). Nghiên cứu định hướng chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại, bền vững gắn với quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

    2. Europa. (2013). Approaches to sustainble agriculture, . European Union .

    3. FAO. (2021). Chuyển đổi Nông nghiệp tại châu Á - Kinh nghiệm chính sách và thể chế. Bangkok: FAO.

    4. IFAD. (2012). Nông nghiệp hộ gia đình nhỏ bền vững: nuôi sống thế giới và bảo vệ Trái Đất - Sustainable smallholder agriculture: Feeding the world, protecting the planet. IFAD.

    5. IPSARD. (2019). Nghiên cứu xây dựng Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh nông sản Đồng Nai trong hội nhập.

    6. Josh Stott. (2017). Tăng trưởng bao trùm là gì và tại sao nó quan trọng? New York: Tổ Chức Joseph Rowntree.

    7. Kumar, S., Kumar, N., & Vivekadhish, S. (2016). Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) đến Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs).

    8. Laborde D, L. T. (2018). Chuyển đổi nông nghiệp ở Châu Phi và Châu Á: những ưu tiên chính sách là gì? IFPRI.

    9. Laborde, D. L. (2018). Chuyển đổi nền nông nghiệp ở châu Phi và châu Á: Vai trò của chính sách và đầu tư công. Washington D.C. và Geneva: IFPRI và IISD.

    10. Ngân hàng Thế giới. (2016). Báo cáo Phát triển Việt Nam 2016 - Viet Nam Development Report 2016.

    11. Ngân hàng Thế giới. (2018). Đánh giá quản lý chất thải công nghiệp có hại và chất thải rắn, các lựa chọn và hành động - Solid and industrial hazardous waste management assessment options and actions areas. Washington: The World Bank.

    12. Peter Timmer. (1988). Chuyển đổi nông nghiệp - The agricultural transformation. In H. v. Srinivasan, Handbook of Development Economics/ Cẩm nang Kinh tế phát triển. NXB Elsevier Science.

    13. Pretty, J. (2008). Nông nghiệp bền vững: khái niệm, nguyên tắc và bằng chứng. Phil. Trans. R. Soc. B, issue 363.

    14. Rogall G. (2009). Kinh tế học bền vững - Lý thuyết kinh tế và thực tế của Phát triển bền vững. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ (dịch tiếng Việt).

    15. Timmer, D. V. (2012). Tại sao giá lương thực ổn định là một điều tốt: Bài học từ việc ổn định giá gạo ở châu Á An ninh lương thực toàn cầu.

    16. UNEP. (2011). Hướng tới Nền kinh tế Xanh – Lộ trình cho PTBV và xóa đói giảm nghèo 2011. Nairobi, Kenya: UNEP.

    17. Vos, R. (2018). Chuyển đổi nông nghiệp và nông thôn trong các xu hướng phát triển của châu Á trong quá khứ và những thách thức trong tương lai. WIDER Working Paper 2018/87.

Ý kiến của bạn