Banner trang chủ

Nicotex và câu chuyện đạo đức doanh nghiệp

15/09/2015

     Án phạt hơn 420 triệu đồng mà UBND tỉnh Thanh Hóa dành cho Công ty CP Nicotex Thanh Thái vẫn chưa thể làm yên lòng dư luận, đặc biệt là những người dân trực tiếp bị ảnh hưởng tại huyện Cẩm Thủy. Không ít ý kiến hoài nghi về mức độ sai phạm của doanh nghiệp cũng như trách nhiệm của các cơ quan quản lý liên quan. Một câu hỏi đặt ra, phải chăng hành vi vi phạm của Nicotex Thanh Thái chính là một trong những biểu hiện của suy thoái đạo đức doanh nghiệp?        Là ngành đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, song công nghiệp hóa chất nói chung cũng như sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) nói riêng tiềm ẩn những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Đặc biệt, mức độ rủi ro phụ thuộc vào loại hóa chất, phương pháp quản lý sản xuất, cách thức sử dụng cũng như quy trình thải bỏ trong suốt vòng đời sản phẩm. Trách nhiệm kiểm soát trước tiên thuộc về nhà sản xuất kinh doanh hóa chất bởi họ là người hiểu rõ nhất các rủi ro của hóa chất.      Nicotex là công ty chuyên về sản xuất (sang chai, đóng gói), kinh doanh thuốc BVTV và Thanh Thái là một trong số các cơ sở sang chai, đóng gói hóa chất BVTV của đơn vị. Các loại hoạt chất để sản xuất hóa chất BVTV (thuốc diệt cỏ, diệt côn trùng hay sinh vật có hại, thuốc dẫn dụ, thuốc kích thích sinh trưởng…) dù là thế hệ thuốc mới, thân thiện với môi trường, được tổng hợp bằng phương pháp hóa học hay chiết xuất từ tự nhiên thì cũng đều là hóa chất hay chủng vi sinh có độ độc nhất định đối với các cơ thể sống.      Các chất này có độc tính, tác động tới hệ thần kinh, tiêu hóa hay sinh sản của côn trùng. Tuy nhiên, với những loại thuốc cũ đã bị cấm nhưng vẫn được lưu hành qua con đường nhập lậu, nhất là từ Trung Quốc thì khả năng có chứa những hợp chất hóa học cực độc là rất lớn và trong số đó có chất gây ung thư cho con người khi tiếp xúc ở nồng độ cao.      Về nguyên tắc, các công ty sản xuất hay sang chai đóng gói hóa chất nói chung và hóa chất BVTV nói riêng phải nắm được các thông tin về tính nguy hiểm của các sản phẩm cũng như các giải pháp liên quan đến quản lý an toàn các loại sản phẩm ở tất cả các khâu như sản xuất, lưu trữ, vận chuyển, sử dụng và thải loại. Đặc biệt, các đơn vị này phải nắm rõ tính chất nguy hại của chúng khi ở dạng chất thải được thải ra môi trường để xây dựng các phiếu thông tin về an toàn hóa chất nhằm cung cấp cho người sử dụng kèm theo mỗi sản phẩm.   Hóa chất tại Công ty Nicotex Thanh Thái        Khi các hợp chất có mặt trong nguyên liệu hay sản phẩm thuốc BVTV được sử dụng như phun trên cánh đồng sẽ trở thành mối nguy hiểm lớn cho môi trường không khí, đất, nước, đặc biệt là nguồn nước ngầm. Nếu thiếu các các biện pháp kiểm soát để rò rỉ, bay hơi, lượng hóa chất sẽ gây nguy hiểm cho cộng đồng, phơi nhiễm qua đường hô hấp, da, đường tiêu hóa.      Sự cố rò rỉ chất độc (MIC) tại Nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu ở Bohpal, Ấn Độ có thể xem là một ví dụ điển hình. Sự cố xảy ra cách đây gần 30 năm, gây ảnh hưởng cho khoảng 500.000 người, trong đó có gần 6.000 người chết do phơi nhiễm hóa chất này. Tính đến nay, đã có khoảng 25.000 người chết vì sự cố nghiêm trọng này. Chưa hết, cứ ba cháu bé ra đời tại Bohpal thì có một cháu bị chết hoặc dị tật. Chính phủ Ấn Độ đã yêu cầu đơn vị sản xuất phải bồi thường 3,3 tỷ USD cho những người dân bị ảnh hưởng.      Với trường hợp của Nicotex, một công ty sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV trong nhiều năm chắc phải hiểu rằng, việc kéo dài hoạt động chôn lấp hóa chất, chất thải nguy hại trái phép sẽ có tác động như thế nào tới môi trường, sức khỏe con người và trước hết là ảnh hưởng tới chính công nhân của họ. Tuy nhiên, họ vẫn làm và khi bị phát hiện thì cố tình che giấu hành vi vi phạm bằng mọi cách. Có thể hiểu, ngoài lợi ích kinh tế chi phối mạnh mẽ, nguyên nhân cơ bản và sâu xa có lẽ nằm ở chính ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp, khái quát hơn là vấn đề về đạo đức doanh nghiệp.      Pháp luật có chặt chẽ và hoàn chỉnh tới đâu, nếu không có đạo đức doanh nghiệp thì các đơn vị sẽ vẫn tìm mọi cách để lách luật nhằm thu lợi bất chính, bất chấp việc làm đó có thể gây nguy hại cho môi trường và xã hội. Trách nhiệm đối với cộng đồng và môi trường vì thế xuất phát từ chính đạo đức của doanh nghiệp chứ không phải chỉ thỏa mãn các yêu cầu của pháp luật.      Hành vi chôn thuốc trừ sâu trái phép của Nicotex không chỉ vi phạm pháp luật mà còn thể hiện sự vô cảm, thiếu trách nhiệm với cộng đồng và với chính bản thân doanh nghiệp, điều mà lẽ ra một nhà sản xuất hóa chất phải hiểu và tôn trọng hơn cả. Bởi trong ngành này, “đạo đức doanh nghiệp” không phải là khẩu hiệu suông mà trên thực tế được coi là tôn chỉ của Tổ chức Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp hóa chất thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất hóa chất Châu Á Thái Bình Dương (APRO), trong đó Việt Nam là một thành viên.      Tổ chức Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp hóa chất nêu 6 quy phạm mang tính cam kết, gồm: doanh nghiệp phải có trách nhiệm với cộng đồng về cung cấp thông tin hóa chất và triển khai kế hoạch ngăn ngừa ứng phó sự cố từ các rủi ro hóa chất; phải ngăn ngừa và giảm thiểu phát thải ô nhiễm vào môi trường; đảm bảo quá trình sản xuất luôn luôn trong điều kiện an toàn; đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người lao động và cộng đồng; phân phối sản phẩm hóa chất an toàn; đảm bảo kiểm soát rủi ro trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm hóa chất.      Điều đáng lo ngại là Nicotex có thể chỉ là một trong số những doanh nghiệp có hành vi suy thoái đạo đức khi đặt lợi nhuận lên trên lợi ích của cộng đồng. Do đó, ngoài việc thắt chặt về pháp lý thông qua hệ thống kiểm tra, giám sát, cũng cần coi trọng việc nâng cao nhận thức, năng lực của cộng đồng và tạo điều kiện hơn nữa để người dân được tham gia vào quá trình giám sát các tác động môi trường. Bởi trong vụ việc này, nếu không có sự đồng lòng và quyết tâm từ phía người dân cộng với áp lực từ phía dư luận thì sai phạm của Nicotex rất có thể sẽ bị ỉm đi như những gì mà người dân Cẩm Thủy từng phản ánh từ nhiều năm trước.   TS. Đỗ Thanh Bái Hội đồng Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp hóa chất Việt Nam Nguồn: Tạp chí Môi trường, số 11/2013        
Ý kiến của bạn