21/10/2025
Trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về BÐKH, đến năm 2030, Việt Nam cam kết sẽ cắt giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính (KNK) so với năm 2010 bằng nguồn lực trong nước. Mức cắt giảm có thể tăng lên 25% nếu nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế. Để đạt được mục tiêu trên, một trong những biện pháp Việt Nam đang triển khai là nghiên cứu áp dụng công cụ đo lượng khí thải (Calculator 2050) nhằm hỗ trợ chính sách về quản lý năng lượng và phát thải KNK. Calculator 2050 là một mô hình tính toán do Bộ Năng lượng và Biến đổi khí hậu Vương quốc Anh phát triển để hỗ trợ tính toán nhanh, đưa ra các giả định và lựa chọn chính sách liên quan đến cung - cầu năng lượng và phát thải KNK đến năm 2050 cho một số lĩnh vực năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải (GTVT).
Sau 4 năm công bố phiên bản gốc, Việt Nam đã tiếp cận và phát triển công cụ Calculator 2050 tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế trong nước, tuy nhiên nghiên cứu chuyên sâu để ứng dụng cho một lĩnh vực cụ thể còn hạn chế, trong đó lĩnh vực giao thông vận tải là một ví dụ điển hình. Vì vậy, qua kinh nghiệm sử dụng công cụ Calculator 2050 ở một số nước có thể đề xuất hướng ứng dụng Calculator 2050 cho hoạt động vận tải đường bộ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Kinh nghiệm sử dụng công cụ Calculator 2050 ở một số nước
Vương quốc Anh
Đây là quốc gia khởi nguồn nghiên cứu và phát triển công cụ Calculator 2050. Phiên bản đầu tiên được quốc gia này công bố vào năm 2010, sau khi hoàn thành, Anh đã chuyển đã chuyển giao cho gần 20 quốc gia trên thế giới phát triển công cụ Calculator 2050 của riêng quốc gia mình.
Phiên bản Exel
Công cụ Calculator 2050 là mô hình tính toán giúp xây dựng chiến lược thị trường năng lượng, với các kịch bản phát triển năng lượng và giảm phát thải KNK từ nay đến năm 2050. Các dữ liệu được thu thập, lựa chọn đáp ứng yêu cầu của mô hình trong phiên bản, từ đó, xác định các kịch bản có thể xảy ra trong tương lai để đưa ra quyết sách hợp lý nhằm giảm phát thải, cải thiện chất lượng không khí, hạn chế nhập khẩu năng lượng, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Không chỉ vậy, khi phát triển công cụ Calculator 2050 đã tạo ra là một cấu trúc linh hoạt, có thể điều chỉnh, thay đổi để tính đến các khác biệt về cấu trúc giữa nền kinh tế Anh và nền kinh tế của các quốc gia khác. Chính vì vậy, khi sử dụng, các quốc gia đều có thể tạo ra một phiên bản cho riêng mình và phù hợp với điều kiện của từng quốc gia đó. Với mỗi phiên bản, người dùng có thể khai thác theo các cách khác nhau cho mục tiêu giảm phát thải CO2eq. Đến nay, một số quốc gia đã phát triển để sử dụng công cụ như Ôxtrâylia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Braxin, Inđônexia, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam.
Khi xây dựng công cụ Calculator 2050, Vương quốc Anh đặt ra yêu cầu cần giảm 80% lượng khí thải vào năm 2050 từ mức năm 1990. Trước yêu cầu đó, năm 2015, công cụ Calculator 2050 được sử dụng để xây dựng lên kế hoạch sản xuất năng lượng sinh học với tỷ lệ đất nông nghiệp chiếm từ 7% - 61%. Năm 2016 công cụ này được sử dụng để xây dựng kế hoạch sản xuất điện trong nước với 9,6 GW điện sản xuất từ hạt nhân, 31 GW từ gió và 8,9 GW từ bể lưu trữ các bon vào năm 2030. Đồng thời, công cụ này cũng được khai thác để xem xét ảnh hưởng của mục tiêu giảm chất ô nhiễm vào phát thải ngành công nghiệp thép toàn cầu nhằm đáp ứng cho yêu cầu đặt ra.
Mêxicô
Mêxicô cam kết mạnh mẽ tuân thủ Hiệp định Pari về biến đổi khí hậu với mục tiêu nền kinh tế phải giảm thiểu lượng CO2 vào năm 2050. Theo Bộ MT&TN Mêxicô, để thực hiện cam kết trên, toàn bộ các công ty, doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực sẽ phải báo cáo hàng năm về mức phát thải các hợp chất gây hiệu ứng nhà kính và CO2. Chính phủ Mêxicô cũng cam kết thúc đẩy chuyển đổi năng lượng sạch hướng tới mục tiêu 35% sản lượng điện quốc gia vào năm 2024 được sản xuất từ các nguồn năng lượng sạch, thân thiện với môi trường. Ngoài ra, Mêxicô cũng triển khai chương trình thí điểm nhằm phát triển thị trường các bon, theo đó lĩnh vực tư nhân sẽ giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và duy trì cạnh tranh trong môi trường toàn cầu.
Để xây dựng kịch bản giảm phát thải KNK, Mêxicô đã phát triển công cụ Calculator 2050 với đặc thù riêng, để so sánh tác động của các chính sách ở cấp độ ngành. Ở đất nước này, mô hình được sử dụng để kết nối các nguồn năng lượng chính và khí thải nhà kính để cung cấp cho tất cả các lĩnh vực. Các lĩnh vực được xem xét trong công cụ bao gồm các thành phố, giao thông đô thị, hộ gia đình, một số ngành công nghiệp, thương mại. Các loại năng lượng được xem xét trong mô hình như năng lượng hạt nhân, sinh khối, năng lượng tái tạo (quy mô nhỏ và lớn) và điện từ nhiên liệu hóa thạch, phụ phẩm nông nghiệp, quản lý chất thải, sản xuất nhiên liệu hóa thạch.
Có 3 KNK chính (CO2, CH4 và N2O) ảnh hưởng trực tiếp đến biến đổi khí hậu được mô tả trong nội dung của công cụ. Kết quả là bốn kịch bản năng lượng các bon thấp đã được thông qua với mức phát thải CO2 ở dưới 320 MtCO2eq/năm vào năm 2050 (giảm 50% so với mức năm 2000).
Trung Quốc: Với sự hỗ trợ của Vương Quốc Anh, Trung Quốc đã công bố phiên bản Calculator 2050 tự phát triển vào năm 2012 chỉ sau 2 năm so với Anh. Điều này không có gì ngạc nhiên vì Trung Quốc là nước tiêu thụ năng lượng và phát thải CO2 lớn nhất. Việc ứng dụng công cụ Calculator 2050 đã được triển khai trong nhiều lĩnh vực sử dụng năng lượng, trong đó một số nhà nghiên cứu đã chú trọng ứng dụng công cụ trong lĩnh vực GTVT.
Từ năm 2015, Trung Quốc đã công bố công trình nghiên cứu sử dụng công cụ Calculator 2050 để dự báo nhu cầu năng lượng và phát thải CO2 cho vận tải đường bộ giai đoạn 2010 - 2050. Các loại phương tiện đường bộ được đưa vào phân tích đa dạng gồm xe tải hạng nhẹ, hạng trung, xe tải nhỏ, xe buýt hạng nhẹ, xe buýt hạng nặng, ô tô và xe máy. Số liệu tính toán cho thấy, mức giảm phát thải CO2 từ 2,08 xuống 1,24 GtCO2/năm vào năm 2050. Ngoài ra, trong một nghiên cứu khác về phát thải được thực hiện trong năm 2016, Trung Quốc sử dụng công cụ Calculator 2050 để phân tích năng lượng và phát thải cho ngành GTVT. Nghiên cứu cũng chỉ ra khoảng 90% tổng năng lượng sử dụng đối với ngành giao thông do dầu nhập khẩu; ngành giao thông tiêu thụ 25% tổng đầu vào năng lượng sơ cấp tại Trung Quốc và 16% CO2 phát thải từ nước này là do dầu mỏ, trong đó nguồn chính là GTVT. Kết quả sử dụng công cụ Calculator 2050 là cơ sở và căn cứ để xây dựng Chiến lược, kế hoạch sử dụng năng lượng, giảm phát thải đối với ngành giao thông nói riêng, ngành năng lượng nói chung tại Trung Quốc.
Để xuất hướng ứng dụng Calculator 2050 cho hoạt động vận tải đường bộ của Việt Nam
Trong những năm gần đây, hoạt động GTVT đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tuy nhiên cũng là ngành chủ yếu phát thải KNK. Theo thống kê của Viện Chiến lược và Phát triển GTVT (Bộ GTVT), trong giai đoạn 2011- 2016, các hoạt động GTVT ở Việt Nam tiêu thụ một lượng lớn năng lượng, chiếm 30% tổng nhu cầu năng lượng quốc gia, 60% tổng nhiên liệu tiêu thụ và tăng 10% mỗi năm. Trong đó, vận tải đường bộ tiêu thụ năng lượng lớn nhất, chiếm khoảng 68% tổng nhiên liệu của ngành; 90% nhiên liệu cho GTVT là xăng và dầu diesel (chỉ 0,3% nhiên liệu sạch). Với việc tiêu thụ số lượng lớn nhiên liệu, các hoạt động GTVT đã phát thải lượng lớn KNK, làm gia tăng biến đổi khí hậu. Hiện nay, trung bình mỗi năm hoạt động GTVT phát thải khoảng 30 triệu tấn CO2. Trong đó phát thải giao thông đường bộ chiếm 86%, đường sắt, đường thủy và đường hàng không chiếm 14%.
Cũng như một số quốc gia trên thế giới, Cục kỹ thuật An toàn và môi trường Công nghiệp - Bộ Công thương đã nghiên cứu thử nghiệm công cụ Calculator 2050 phiên bản của Việt Nam (gọi tắt là Calculator 2050 Việt Nam) từ năm 2014 dưới sự hỗ trợ kỹ thuật của Vương quốc Anh thông qua Đại sứ quán Anh tại Việt Nam. Công cụ này cũng gồm 2 phiên bản Excel và Webtool để dự báo năng lượng và phát thải KNK cho một số ngành như năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp và GTVT. Phiên bản Excel được sử dụng để xây dựng 4 kịch bản phát triển vận tải hành khách và hàng hóa đường bộ nội địa giai đoạn 2015 - 2050 và chọn năm 2010 là năm cơ sở. Việc thiết lập kịch bản và lựa chọn các thông số đầu vào theo 4 cấp độ: Cấp độ 1 (không có nỗ lực), cấp độ 2 (quyết tâm thực hiện và đạt được các mục tiêu đề ra trong chiến lược, quy hoạch), cấp độ 3 (một quyết tâm hơn nữa nhưng chưa phải cuối cùng) và cấp độ 4 (mức độ tối đa nhất có thể, mọi rào cản về cơ bản được rỡ bỏ). Các thông số đầu vào được căn cứ để đưa vào bao gồm: Nhu cầu vận tải: Được đưa vào theo số lượt hành khách/km theo đầu người/năm và số lượng hàng hóa/km theo đầu người/năm cho mỗi giai đoạn 5 năm; tỷ lệ phần trăm (%) phương tiện vận tải: Được ước tính theo lượt hành khách/km và lượng hàng hóa/km; số liệu được lựa chọn theo mục tiêu cho mỗi trong bốn kịch bản và lấy số liệu năm 2010 là số liệu cơ sở; Số lượng vận tải của một phương tiện được thiết lập theo kịch bản ứng với 4 cấp độ (1,2,3,4); Định mức tiêu thụ nhiên liệu của các phương tiện được thiết lập theo năm cho mỗi loại phương tiện và sẽ giảm thêm cho mỗi chu kỳ 5 năm do hiệu quả năng lượng ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, mức tiêu thụ nhiên liệu ở 4 kịch bản giả định được giữ nguyên để tập trung phân tích các yếu tố khác…
Phiên bản webtool (trực tuyến) cho Calculator 2050 của Việt Nam
Đồng thời, phiên bản Excel cũng tính toán các thông số khác như tuổi thọ của phương tiện, số km di chuyển của các phương tiện theo năm, tỷ lệ (%) công nghệ sử dụng và hệ số phát thải cũng được đưa vào công cụ để tạo ra các kết quả gồm nhu cầu tiêu thụ năng lượng, các khí thải (CO2, CH4, N2O, SO2 và NO…) và số lượng các phương tiện như xe đạp, xe máy, ô tô con, xe khách, xe buýt, xe tải hạng nhẹ và xe tải hạng nặng dự báo theo mô hình. Tiếp theo, thực hiện chuyển đổi sang phiên bản Webtool sau đó sẽ được thử nghiệm nhằm thể hiện tính trực quan của công cụ. Trên cơ sở tính toán, phân tích các số liệu đầu vào cho việc xây dựng quy hoạch phát triển giao thông đường bộ phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trung hạn và dài hạn của Việt Nam. Phiên bản cũng đưa ra dự báo về nhu cầu tiêu thụ năng lượng và phát thải của vận tải đường bộ của Việt Nam ngày càng lớn, đến năm 2035, tổng nhu cầu năng lượng sẽ tăng gấp gần 2,5 lần so với năm 2015. Mức tiêu thụ năng lượng trong giao thông vận tải (chiếm tỷ trọng 27,5%) được dự báo sẽ gia tăng nhanh nhất (5,7%/năm), lĩnh vực công nghiệp (chiếm tỷ trọng 45,3%) có tốc độ tăng 5,0%/năm trong giai đoạn 2016 - 2035. Để đạt được mục tiêu giảm phát thải cho hoạt động giao thông đường bộ, phiên bản cũng đề ra một số giải pháp, cụ thể:
Thứ nhất, cần quy hoạch mạng lưới đường ở các khu vực trọng điểm, nhất là các thành phố lớn để tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia giao thông. Đồng thời, chú trọng lồng ghép công tác giảm nhẹ phát thải KNK vào các quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư, phát triển GTVT; xây dựng các cơ chế, chính sách, khuyến khích sử dụng các phương tiện giao thông tiết kiệm năng lượng.
Thứ hai, thực hiện chương trình kiểm tra phát thải các phương tiện giao thông với việc tăng cường các trạm và tuần tra, kiểm soát trên đường để bảo đảm xe máy trong quá trình sử dụng luôn được bảo dưỡng, sửa chữa và kiểm tra đúng thời hạn về tiêu chuẩn khí thải khi tham gia giao thông đường bộ.
Thứ ba, tăng tỷ lệ người dân sử dụng xe đạp, các loại ô tô dùng nhiên liệu sạch như xe bus chạy điện hoặc khí tự nhiên nén (CNG), ô tô con và xe khách sử dụng xăng E5, E10 hoặc diesel B5, B10, thậm trí xe chạy bằng điện… Để giải pháp này có hiệu quả cao cần thực hiện tốt các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ tài chính như giảm thuế và giảm chi phí đầu vào. Đồng thời, giảm tỷ lệ sử dụng xe máy sử dụng nhiên liệu truyền thống, đồng thời tăng số người sử dụng trên một phương tiện. Điều này thực hiện được sẽ giảm ách tắc cho giao thông đường bộ của Việt Nam, đặc biệt tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ giao thông thông minh, công nghệ vận tải xanh để giảm phát thải KNK trong lưu thông và vận chuyển hàng hóa. Tổ chức thí điểm và triển khai nhân rộng ứng dụng năng lượng tái tạo, công nghệ ít tiêu hao năng lượng (pin năng lượng mặt trời, đèn led...) vào các hạng mục chiếu sáng, báo hiệu giao thông.
Nguyễn Thị Ánh Tuyết
Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường
Phạm Thị Huế
Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 11/2019)