Banner trang chủ

Hướng tới hoàn thiện hệ thống luật pháp về ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước ở Việt Nam

04/07/2014

     Nguồn nước mặt (sông, ngòi, ao, hồ) của Việt Nam đang bị suy thoái, phá hủy, thay đổi, khai thác quá mức và tại nhiều vùng mức độ ô nhiễm nước đã có nguy cơ không kiểm soát được. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng trước những tác động của biến đổi khí hậu và tình trạng phụ thuộc nguồn nước và ô nhiễm từ các quốc gia thượng nguồn. Luật BVMT mang tính chất “luật khung”, trong đó nước chỉ là một trong những “môi trường thành phần” cần được bảo vệ và kiểm soát ô nhiễm, vì vậy trong Luật không quy định đầy đủ, chi tiết và cụ thể các khâu liên quan kiểm soát ô nhiễm nước, từ ngăn ngừa, phát hiện, ngăn chặn đến xử lý, phục hồi.

     Trên cơ sở những kết quả khảo sát, đánh giá thực tiễn, phân tích các tài liệu từ các hội nghị, hội thảo khoa học, bài báo nêu lên những luận cứ cho việc đề xuất ban hành Luật Ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước (NN&KSONN) ở Việt Nam.

     I. Ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam - Thực trạng và nguyên nhân

     Việt Nam có tài nguyên nước thuộc loại trung bình trên thế giới, nhưng ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững. Tổng trữ lượng nước mặt khoảng 830-840 tỷ m3, trong đó 63% lượng nước là từ quốc gia thượng nguồn chảy vào (Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan). Với đặc thù dạng lỏng, khi nước bị ô nhiễm sẽ lan truyền với tốc độ rất nhanh và ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội và sức khỏe con người.

     Ô nhiễm nguồn nước đang gây ra những tác hại to lớn đối với sản xuất nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp và sức khỏe con người. Nguồn nước ô nhiễm làm cho nguồn lợi thủy sản bị chết, năng suất cây trồng giảm và gây ra các dịch bệnh như kiết lỵ, tả, tiêu chảy, bệnh về da và mắt. Nguy hiểm hơn, ô nhiễm nước do các hóa chất gây ra ngộ độc cấp tính, dù ở mức thấp, nhưng tiếp xúc lâu dài, sẽ dẫn đến ung thư, tăng nguy cơ sẩy thai và dị tật bẩm sinh. Tại một số địa phương, các trường hợp ung thư, viêm nhiễm ở phụ nữ cho thấy, 40% - 50% là do sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Trung bình mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 9.000 người tử vong và gần 200.000 người mắc bệnh ung thư vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Bên cạnh đó là những thiệt hại về sản phẩm nông nghiệp, thủy sản; chi phí điều trị bệnh và xử lý nước...

 

Sông ngòi và lưu vực sông có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội

 

     NN&KSONN đã được thể chế hóa tại nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước thể hiện trong Luật BVMT, Luật Tài nguyên nước (TNN). Tuy nhiên, trong quá trình thực thi tình trạng ô nhiễm nước vẫn chưa được ngăn ngừa và kiểm soát một cách chặt chẽ; hệ thống các văn bản pháp luật vẫn tồn tại một số bất cập, cụ thể: Quy trình 3 công đoạn “Ngăn ngừa; phát hiện - ngăn chặn; và xử lý-phục hồi” chưa được làm rõ, trong thực tiễn chủ yếu là “xử lý vi phạm” và kiểm tra ở cuối nguồn; chưa có hướng dẫn hoặc quy định cụ thể về công nghệ xử lý; Các số liệu quan trắc chưa được thông tin tới công chúng; Vai trò cộng đồng trong khâu “giám sát” còn mờ nhạt... Trong bối cảnh đó cần thiết xây dựng và ban hành một văn bản pháp luật cao nhất, chuyên sâu nhằm điều chỉnh các nội dung về NN&KSONN, có thể là Luật NN&KSONN ở Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới và khu vực đã ban hành luật về kiểm soát ô nhiễm nước.

    II. Đề xuất xây dựng Luật NN&KSONN

     1. Mục tiêu, nguyên tắc xây dựng Luật

     Mục tiêu: Khắc phục và dần kiểm soát tình trạng ô nhiễm nước nghiêm trọng hiện nay, đảm bảo các nguồn nước được khôi phục trở thành nền tảng sinh thái quan trọng bậc nhất phục vụ nhu cầu thiết yếu về đời sống và các hoạt động kinh tế, dịch vụ, đồng thời khắc phục tính chất phức tạp và các quan hệ có tính xung đột giữa các hoạt động tương tác trên nguồn nước, bao gồm nước sạch, cá, thủy sản và các nguồn xả thải vào nguồn nước từ sản xuất và đời sống.

     Nguyên tắc: Quản lý môi trường nước dựa trên kết quả cuối cùng và quy định rõ trách nhiệm quản lý; Ưu tiên xử lý các điểm ô nhiễm công nghiệp và đô thị; Ưu tiên công đoạn “ngăn ngừa” trong quy trình 3 công đoạn NN&KSONN; Nguyên tắc công bằng trách nhiệm giữa: Nhà nước, Doanh nghiệp và Cộng đồng, sao cho cơ quan quản lý nhà nước trở thành bạn của doanh nghiệp, và cơ quan nhà nước và doanh nghiệp sẽ chịu sự giám sát của cộng đồng.

     2. Một số nội dung cần quy định cụ thể trong Luật

     Quy trình 3 công đoạn trong NN&KSONN: Ưu tiên “ngăn ngừa” trong quy trình 3 công đoạn của NN&KSONN. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể, chi tiết về: Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đối với các dự án/công trình liên quan đến nguồn nước; Quy hoạch, phân vùng sử dụng, bảo vệ hệ thống nước mặt ở địa phương gắn với trách nhiệm của chính quyền; Xây dựng, xác định tiêu chuẩn chất lượng nước; Báo cáo giám sát môi trường định kỳ; Xác định sức chịu tải môi trường nước; Đánh giá khả năng chịu tải của nguồn nước.

     Đối với việc phát hiện và ngăn chặn ô nhiễm nước cần quy định về hoàn thiện và thúc đẩy hoạt động xử lý nguồn thải; Quản lý kiểm soát nguồn thải/nước thải trong trách nhiệm chỉ đạo quan trọng của UBND tỉnh.

     Đối với việc xử lý và phục hồi chất lượng nguồn nước cần quy định chi tiết và cụ thể về xử lý nguồn thải; Theo dõi, phát hiện khu vực ô nhiễm; Điều tra, xác định mức độ, phạm vi, nguyên nhân gây ô nhiễm; Xác định trách nhiệm của đối tượng gây thiệt hại, xử lý đền bù thiệt hại; Cải thiện, phục hồi chất lượng môi trường nước, phân công và đề xuất phương thức thực hiện (công nghệ xử lý); Phát hiện, khoanh vùng, cô lập nguồn gây ô nhiễm, xác định cụ thể trách nhiệm của UBND tỉnh/thành phố thượng nguồn dòng nước phối hợp với UBND các tỉnh vùng hạ nguồn trong điều tra, phát hiện xác định nguồn gây ô nhiễm.

     Vai trò của các tổ chức xã hội và cộng đồng trong NN&KSONN: Quy định cụ thể về chức năng giám sát ô nhiễm nước của các cấp quản lý nhà nước (Quốc hội; Chính phủ; Các Bộ/ngành và chính quyền địa phương; Vai trò các tổ chức xã hội, đoàn thể và cộng đồng dân cư; Thúc đẩy các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong việc hỗ trợ người dân giám sát môi trường nước.

     Cơ chế xử phạt và khuyến khích những điển hình trong NN&KSONN: Người lãnh đạo cơ sở gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm đền bù cho tác hại gây ô nhiễm của cơ sở mình; Khi gây tác hại nghiêm trọng, có thể bị quy các tội danh hình sự; Cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác NN&KSONN.

     Công nghệ: Có chính sách hỗ trợ về tri thức và tài chính cho các hoạt động ứng dụng công nghệ trong xử lý, kiểm soát ô nhiễm nước, đặc biệt là các công nghệ dựa trên vi sinh, phi hóa chất.

     Tăng cường công tác truyền thông: Truyền thông đóng vai trò quan trọng trong giám sát, phát hiện ô nhiễm nước, đồng thời nêu gương các doanh nghiệp tốt trong NN&KSONN; Người dân có quyền được tiếp cận các thông tin về ô nhiễm nước và chất lượng nước.

     Trách nhiệm giải trình của chính quyền và doanh nghiệp: Quyền của người dân được biết thông tin, được chất vấn chính quyền hoặc doanh nghiệp/chủ đầu tư về hiện tượng ô nhiễm nguồn nước; Vai trò của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng trong NN&KSONN.

     3. Lộ trình xây dựng, ban hành Luật NN&KSONN

     Tạo sự đồng thuận: Việc xây dựng Luật nhằm giải quyết tình trạng ô nhiễm nước nghiêm trọng có tính thực thi cao, cân nhắc bối cảnh công nghệ, tài chính và quản lý hiện nay, thông qua các hội nghị, hội thảo với sự tham gia của các bên liên quan.

     Rà soát văn bản: Rà soát, hệ thống hóa và đánh giá các nội dung đã được quy định liên quan đến NN&KSONN. Bóc tách nội dung các quy định về NN&KSONN trong các văn bản pháp luật hiện hành, đặc biệt là các quy định trong Luật BVMT và Luật TNN hiện nay, để chuẩn bị nội dung mang tính hệ thống về NN&KSONN.

     Nghiên cứu, khảo sát: Tiến hành các nghiên cứu, khảo sát đánh giá và phát hiện những rào cản trong việc thực thi các văn bản pháp luật liên quan đến NN&KSONN, các nghiên cứu về cơ chế giám sát, cơ chế tham gia, cơ chế thông tin, cơ chế tài chính, công nghệ… nhằm đảm bảo tính khả thi cho các quy định trong Luật NN&KSONN; Đánh giá mức độ hiệu quả của các hoạt động NN&KSONN, xác định những nguyên nhân chủ yếu, nhằm đề xuất các hoạt động cần được quy định trong Luật NN&KSONN như phân công trách nhiệm rõ hơn giữa các cơ quan quản lý nhà nước, tránh chồng chéo; Tách biệt giữa thanh tra môi trường và cảnh sát môi trường…; Tiến hành những nghiên cứu sâu về thực tiễn Việt Nam và những bài học thành công và thất bại của các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới trong việc NNKSONN để áp dụng trong quá trình xây dựng Luật NN&KSONN ở Việt Nam.

     Ban hành Nghị định Chính phủ về NN&KSONN: Trình bày tới đại biểu Quốc hội trong kỳ họp thông qua Luật BVMT (sửa đổi) vào tháng 6/2014 về luận cứ cho việc ban hành Luật NN&KSONN, với những đề xuất về nguyên tắc và nội dung đặc thù cần quy định trong Luật. Để triển khai hiệu quả Luật BVMT (sửa đổi) nhằm đáp ứng sự cần thiết và tính đặc thù cho các thành phần môi trường cụ thể (nước; không khí…), Bộ TN&MT cần đề xuất, trình Chính phủ ban hành Nghị định về NN&KSONN ở Việt Nam.

     Xây dựng Dự thảo và Ban hành Luật về NN&KSONN ở Việt Nam: Bộ TN&MT chủ trì cùng các đối tác chuẩn bị xây dựng nội dung Dự thảo Luật NN&KSONN, thời hạn: năm 2015-2016; Luật NN&KSONN được trình và được Quốc hội thông qua, ban hành, thời hạn: năm 2017.

 

PGS. TS. Đặng Ngọc Dinh

Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA)

Nguồn: Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề kiểm soát ô nhiễm nước

tại Việt Nam - cơ hội và thách thức

Ý kiến của bạn