Banner trang chủ
Thứ Năm, ngày 13/03/2025

Chuyển dịch năng lượng công bằng ở một số nước trên thế giới và gợi ý cho Việt Nam

04/03/2025

    Chuyển dịch năng lượng công bằng là sự chuyển dịch từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng sạch, ít các-bon mà không gây ra các tác động tiêu cực tới xã hội, việc làm và sinh kế của người dân. Đây là xu hướng toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh các cam kết của các quốc gia trong việc đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào giữa thế kỷ XXI. Tại Hội nghị Thượng định COP26 năm 2021, Nhóm 7 quốc gia có nền kinh tế phát triển (G7) và Liên minh châu Âu (EU) đã đưa ra sáng kiến về chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng của các quốc gia đang phát triển hiện có tỷ trọng sản xuất nhiệt điện than cao. Trong bối cảnh nguồn tài chính khí hậu ngày càng eo hẹp do khó khăn kinh tế toàn cầu, quan hệ đối tác JETP là một trong những giải pháp giúp các nước đang phát triển tiếp cận nguồn lực cần thiết để xây dựng và triển khai hiệu quả các lộ trình phát triển các-bon thấp, có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu. Sau quá trình đám phán, Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (Tuyên bố JETP) được Việt Nam và nhóm các đối tác quốc tế (IPG) thông qua ngày 14/12/2022 tại Brúc-xen, Vương quốc Bỉ. Các đối tác quốc tế tham gia quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với Việt Nam gồm có Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Italia, Canada, Đan Mạch, Na Uy. Là quốc gia thứ 3 sau Indonesia và Nam Phi ký kết thực hiện JETP, nhưng đến nay, Việt Nam là quốc gia đầu tiên công bố Kế hoạch huy động nguồn lực triển khai JETP. Đây được xem là bước đi tiên quyết, quan trọng để khơi thông nguồn tài chính từ JETP và chuyển hóa thành các dự án mang tính đột phá, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng của Việt Nam. Điều này chứng minh, Việt Nam đã sẵn sàng và sẽ tạo điều kiện tốt nhất để tiếp nhận các nguồn lực thực hiện chuyển dịch năng lượng công bằng. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc chuyển đổi này không chỉ gặp khó khăn về tài chính và công nghệ mà còn yêu cầu sự thay đổi lớn về mặt thể chế và chính sách. Bài viết tập trung phân tích kinh nghiệm chuyển dịch than công bằng của các quốc gia như Indonesia, Nam Phi, Ấn Độ, trên cơ sở đó rút ra một số gợi mở cho Việt Nam.

    Chuyển dịch than công bằng ở một số quốc gia

    Indonesia

    Bất chấp triển vọng ảm đạm về than, các quốc gia có quy mô nguồn điện than lớn vẫn đang tăng cường nỗ lực phát triển công nghệ, đổi mới khả năng vận hành nhằm cải thiện tác động môi trường, hiệu quả, tính linh hoạt và chi phí của điện than. Indonesia, quốc gia đông dân thứ tư thế giới, sở hữu nguồn tài nguyên phong phú, dân số trẻ, thị trường nội địa tiềm năng, cùng sự cải cách kinh tế và chính sách chiến lược, đang dần khẳng định vị thế là nền kinh tế triển vọng hàng đầu khu vực và toàn cầu. Indonesia cũng là nước xuất khẩu than lớn nhất thế giới, đầu tư vào nhiều nhà máy điện than, dẫn đến tình trạng dư thừa công suất ở một số vùng của đất nước. Trước tình trạng đó, Indonesia đã ban hành nhiều chính sách ứng phó bao gồm "Chiến lược dài hạn về các-bon thấp và khả năng chống chịu với khí hậu 2050" và "Kế hoạch lớn năng lượng quốc gia". Các chiến lược này khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo dựa trên tiềm năng sẵn có, cong nghệ, tài chính và hiệu quả xã hội. Để thực hiện các chiến lược phát triển năng lượng tái tạo, Indonesia có nhiều cơ chế khuyến khích về thuế, hỗ trợ vay vốn nhập công nghệ năng lượng tái tạo, phát triển nguồn nhân lực… Ngoài các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong "Đóng góp do quốc gia tự quyết định tăng cường" năm 2022, Indonesia hướng đến tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong hỗn hợp năng lượng sơ cấp lên ít nhất 23% vào năm 2025, 31% vào năm 2050; dầu phải dưới 25% vào năm 2025, dưới 20% vào năm 2050; than tối thiểu 30% vào năm 2025, 25% vào năm 2050; khí đốt tối thiểu 22% vào năm 2025 và 24% vào năm 2050. Từ mục tiêu đó, JETP ở Indonesia nhằm hỗ trợ cải cách chính sách, giúp Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho tài chính và đầu tư xanh và tăng cường khung pháp lý. Theo đó, các khoản đầu tư của JETP sẽ chủ yếu là các khoản vay cho Chính phủ hoặc cho các doanh nghiệp và được Chính phủ bảo lãnh. Tài chính khu vực công sẽ nhằm mục đích thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân.

    Ấn Độ

    Than đá là trụ cột chính trong ngành năng lượng của Ấn Độ, chiếm khoảng 70% sản lượng điện quốc gia. Với vị trí là nước tiêu thụ than lớn thứ hai thế giới, quốc gia này phụ thuộc sâu sắc vào ngành khai thác than để duy trì hoạt động kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, điều này đặt ra nhiều thách thức lớn liên quan đến môi trường, sức khỏe cộng đồng, và mục tiêu phát triển bền vững. Ấn Độ đã cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2070, nhưng việc chuyển đổi này đang đối mặt với nhiều trở ngại bởi Ngành than đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, từ cung cấp năng lượng đến tạo công ăn việc làm. Cùng với đó, nếu quá trình chuyển đổi diễn ra nhanh chóng mà không có kế hoạch hỗ trợ, hàng triệu người có thể rơi vào cảnh nghèo đói. Theo Bộ Điện lực Ấn Độ, điện than chiếm 51% công suất lắp đặt, nhưng tạo ra hơn 70% tổng sản lượng của quốc gia này vào năm 2022. Ấn Độ đang đặt mục tiêu năng lượng tái tạo chiếm 50% trong cơ cấu năng lượng vào năm 2030. Tuy nhiên, họ không có kế hoạch thông báo ngừng hoạt động bất kỳ một nhà máy nào trong 172 nhà máy điện than hiện có trước năm 2030. Thay vào đó, các công ty điện lực lớn nhất đất nước, như NTPC, đề xuất một cách tiếp cận dần dần vào việc nâng cao hiệu quả và giảm lượng khí thải. Mục tiêu này bao gồm việc áp dụng các công nghệ siêu tới hạn (SC) và trên siêu tới hạn (USC). Năm 2019, NTPC thuộc sở hữu nhà nước đã khởi động nhà máy điện than USC đầu tiên tại Nhà máy điện than Khargone, công suất 1.320 MW (2 tổ máy) ở Madhya Pradesh. Còn đầu năm 2023, công ty sản xuất điện độc lập của Ấn Độ là Adani Power đã bắt đầu vận hành Nhà máy nhiệt điện siêu tới hạn Goddam, công suất 1,6 GW. Dự án ở bang Jharkhand, hay còn gọi là “dự án điện xuyên quốc gia” đầu tiên được ủy quyền của Ấn Độ để cung cấp 100% lượng điện tạo ra cho Bangladesh. Đây cũng là dự án đầu tiên của Ấn Độ có hệ thống khử lưu huỳnh 100% khí thải (FGD), SCR và xả nước thải bằng “0”.

    Nam Phi

    Nam Phi là một quốc gia phát triển nhất châu Phi với vị trí nằm ở cực Nam châu Phi. Quốc gia này sở hữu 3 thủ đô cùng 11 ngôn ngữ chính được sử dụng, vì vậy nơi đây được coi là chiếc cầu nối của châu Phi với thế giới. Ngành công nghiệp than đá của Nam Phi lớn thứ 5 thế giới với 90.000 thợ mỏ, tạo ra 80% điện năng và cung cấp nguyên liệu đầu vào để sản xuất 25% nhiên liệu lỏng cho xe cộ ở Nam Phi. Là một quốc gia phụ thuộc vào than đá để sản xuất điện năng, Nam Phi đã giảm mức phụ thuộc này bằng cách lựa chọn năng lượng sạch hơn. Nam Phi trở thành quốc gia đầu tiên thông qua Tuyên bố JETP với các đối tác phát triển từ Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Đức và Liên minh châu Âu tại COP26. Tiếp theo là Indonessia, Việt Nam và Senegal đã lần lượt tham gia JETP với Nhóm đối tác quốc tế, đã và đang xây dựng kế hoạch thực hiện. Nam Phi bắt đầu xây dựng Kế hoạch đầu tư chuyển đổi năng lượng công bằng sau khi thông qua Tuyên bố chính trị JETP, và hoàn thành 1 năm sau đó vào tháng 10/2022. Kế hoạch xác định nhu cầu đầu tư 98 tỷ USD vào phát triển năng lượng sạch và hỗ trợ quá trình chuyển đổi “công bằng” trong dài hạn; đầu tư vào cơ sở hạ tầng hydro xanh và sản xuất xe điện. Nam Phi cần thêm 1 năm nữa để xây dựng kế hoạch hành động triển khai Kế hoạch đầu tư JETP. Mới đây, EU và các quốc gia thành viên cho biết sẽ đầu tư hơn 280 triệu euro vào Nam Phi để hỗ trợ các cải cách về phục hồi xanh, đầu tư xanh và xây dựng tiến trình chuyển đổi dựa trên tri thức. Đây là hoạt động thuộc Sáng kiến châu Âu của Nhóm phục hồi xanh và công bằng dành cho Nam Phi vừa được ra mắt tại Pretoria trong khuôn khổ Cổng Toàn cầu (Global Gateway). Sáng kiến được kỳ vọng sẽ giúp Nam Phi giải quyết các thách thức kinh tế - xã hội cấp bách thông qua đối thoại chính sách và tạo thuận lợi cho đầu tư, bao gồm kết cấu hạ tầng công cộng và mở ra hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, bảo vệ đa dạng sinh học cũng như chống biến đổi khí hậu. Cam kết của Nam Phi thực hiện kế hoạch chuyển đổi năng lượng công bằng được quốc tế đánh giá cao và cho rằng nền kinh tế hàng đầu châu Phi sẽ được hưởng lợi từ một nền kinh tế có lượng khí thải các-bon thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu trong dài hạn.

    Một số gợi ý cho Việt Nam

    Than là loại năng lượng sơ cấp dễ tiếp cận và có giá thành hợp lý, được sử dụng rộng rãi với tỷ trọng lớn trong ngành sản xuất điện và công nghiệp nặng tại nước ta, nhưng có cường độ phát thải khí CO2 lớn khi sử dụng. Theo bản đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2022, phát thải CO2 từ lĩnh vực năng lượng và các quá trình sản xuất công nghiệp của Việt Nam năm 2020 là 428 triệu tấn CO2 quy đổi, chiếm gần 81% tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam [2]. Việt Nam lại là quốc gia có tốc độ tăng trưởng tiêu thụ than lớn nhất khu vực APEC. Đặc biệt trong giai đoạn 2010 - 2020, lượng than tiêu thụ tại Việt Nam tăng rất nhanh với tốc độ tăng bình quân 12,9%/năm.

Hình 1. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong tiêu thụ than tại một số quốc gia trong khu vực APEC (giai đoạn 2010 - 2020) (Nguồn: [1])

    Tại COP26, Việt Nam đã đưa ra cam kết phấn đấu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch. Để thực hiện cam kết quốc tế nêu trên, Chính phủ Việt Nam đã có những hành động cụ thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu biến đổi khí hậu thông qua một loạt các chính sách mới đã được ban hành trong hai năm gần đây. Cụ thể như: Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, kế hoạch hành động của các Bộ, ngành về việc thực hiện cam kết tại COP26. Gần đây nhất, ngày 15/5/2023, Quy hoạch điện VIII đã được Thủ tướng phê duyệt. Đối với nhiệt điện than trong bản quy hoạch này, chỉ thực hiện tiếp các dự án đã có trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh và đang đầu tư xây dựng đến năm 2030. Theo định hướng phát triển, sẽ không sử dụng than để phát điện vào năm 2050. Đối với các nhà máy nhiệt điện than vẫn còn tuổi thọ về mặt kỹ thuật vào thời điểm đó, sẽ chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối, amoniac. Với các nhà máy có tuổi thọ hơn 40 năm, sẽ dừng hoạt động nếu như không thể thực hiện chuyển đổi nhiên liệu, hoặc không thu giữ CO2. Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, tỷ trọng than tiêu thụ cũng sẽ giảm dần trong những thập kỷ tới, nhưng với tốc độ giảm chậm hơn so với ngành sản xuất điện. Như vậy, thông qua hàng hoạt các cam kết quốc tế và các chính sách cụ thể, có thể thấy rằng, chuyển dịch từ các dạng năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo là xu thế tất yếu của toàn thế giới và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. 

    Từ kinh nghiệm các nước cho thấy, cần phải xây dựng chiến lược tổng thể và toàn diện để thực hiện thành công chuyển dịch năng lượng công bằng cần hướng tới các mục tiêu cụ thể gồm:

    Một là, đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế. Đối với khai thác than trong nước, vẫn cần tiếp tục đầu tư xây dựng cơ bản, chuẩn bị sản xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu về than trong nước, nhằm hạn chế tối đa nhập khẩu than từ nước ngoài. Đối với than nhập khẩu, tiếp tục duy trì các hợp đồng dài hạn với các nhà cung cấp, đối tác nước ngoài với tỷ lệ phù hợp, tránh hiện tượng lệ thuộc quá nhiều vào thị trường than giao ngay vốn dễ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố ngoại lai. Mặt khác, mở rộng liên danh, liên kết, đầu tư mỏ ở nước ngoài (nếu xét thấy phù hợp) nhằm đảm bảo nguồn cung ổn định.

    Hai là, chuyển dịch năng lượng phải gắn với công bằng xã hội. Chuyển dịch năng lượng chỉ được xem là thành công nếu đặt con người ở vị trí trung tâm, đặc biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ngành than sau năm 2050. Do đó, cần xây dựng lộ trình thực hiện, kế hoạch cụ thể để đào tạo lại, đào tạo bổ sung cho người lao động ngành than. Chuyển sang đào tạo các ngành nghề phù hợp với xu hướng chuyển dịch năng lượng của thế giới và Việt Nam. Ví dụ, trong những năm tới, nhu cầu về khoáng sản, nguyên liệu then chốt (lithi, nickel, cô ban, đất hiếm, đồng) sẽ tăng mạnh để phục vụ việc sản xuất các công nghệ năng lượng sạch như tua bin gió, tấm pin mặt trời, pin xe điện, hệ thống đường truyền tải điện. Khi đó, người lao động ngành than cần được được đào tạo bổ sung chuyên môn về công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản, nguyên vật liệu để có thể làm việc tại các mỏ khai thác, chế biến khoáng sản. Cùng với đó là đào tạo mới để thích nghi với các yêu cầu của các loại hình công việc mới trong giai đoạn chuyển dịch năng lượng. Ví dụ như các công việc trong ngành năng lượng tái tạo, sản xuất hydro, sản xuất xe điện, sản xuất pin lưu trữ. Ngoài ra, cần thành lập “Quỹ chuyển dịch năng lượng công bằng” cho ngành than, nhằm hỗ trợ người lao động trong giai đoạn chuyển tiếp nhằm ổn định cuộc sống sau khi mất việc làm.

    Ba là, chuyển dịch năng lượng phải hướng tới BVMT. Trong đó, đảm bảo mục tiêu và lộ trình cắt giảm khí nhà kính; Chú trọng xử lý chất thải và các tác động tiêu cực khác từ hoạt động năng lượng.

Lê Thị Mỹ Hoa, Bùi Văn Hưng

 Đại học Bách khoa Hà Nội

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 2/2025)

    Tài liệu tham khảo

 1. EGEDA - Expert Group on Energy Data Analysis, APEC Energy Working Group, (2021), APEC Energy Database. https://www.egeda.ewg.apec.org/egeda/database_info/index.html.

    2. NDC (2022), Nationally Determined Contributions, https://unfccc.int/documents/622541.

    3. Quyết định số 896/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/7/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.

    4. Quyết định số 500/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/5/2023 phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. https://vanban.chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=207889.

    5. Viện Năng lượng (2021). Thống kê năng lượng Việt Nam năm 2020.

Ý kiến của bạn