Banner trang chủ
Thứ Sáu, ngày 05/09/2025

Một số mô hình chuyển đổi số trong nông nghiệp trên thế giới và bài học cho Việt Nam

04/09/2025

    Chuyển đổi số đang trở thành một xu hướng tất yếu trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và ngành nông nghiệp Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy này. Việc ứng dụng công nghệ số giúp giám sát và điều khiển quy trình sản xuất một cách chính xác hơn, từ đó cải thiện năng suất và giảm thiểu thất thoát trong quá trình canh tác. Ngoài ra, chuyển đổi số còn giúp nâng cao chuỗi cung ứng và tiêu thụ nông sản thông qua các nền tảng thương mại điện tử. tối ưu hóa phân bổ nhân lực, tài nguyên và tài chính, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động. Nội dung chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới (NTM) tập trung trên ba phương diện: “(i) Phát triển chính quyền số ở nông thôn; (ii) Phát triển các chủ thể kinh tế số ở nông thôn; (iii) Phát triển xã hội số cho cộng đồng dân cư ở nông thôn” [1]. Hiện nay, quá trình chuyển đổi số nông thôn đã và đang diễn ra mạnh mẽ tại nhiều quốc gia trên thế giới, hình thành nên những “làng thông minh”, “làng kỹ thuật số”. Tiêu biểu như mô hình “Làng thông minh” của Liên minh châu Âu hay Chương trình Ấn Độ kỹ thuật số… Những mô hình này mang lại cho Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho quá trình chuyển đổi số nông thôn ở nước ta.

    1. “Làng thông minh” của Liên minh châu Âu 

    Với hơn 341 triệu ha, khu vực nông thôn chiếm 83% tổng diện tích của EU, trong đó diện tích đất nông nghiệp, rừng và các khu vực tự nhiên chiếm gần 80% diện tích của EU, tỷ lệ dân số khu vực nông thôn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ với khoảng 28% dân số (93,1 triệu dân), đóng góp 15,3% giá trị gia tăng của khu vực. Trong bối cảnh hiện nay, khu vực nông thôn của EU đang đối mặt với nhiều thách thức: Suy giảm dân số, di cư và xu hướng già hóa ngày càng tăng, dẫn đến số lượng người trong độ tuổi lao động giảm; Chênh lệch về thu nhập giữa người dân nông thôn và thành thị vẫn còn khá lớn; Tỷ lệ dân số có nguy cơ đói nghèo và những rủi ro về gắn kết xã hội ở nông thôn cao; Khả năng tiếp cận dịch vụ còn thấp: Tại nhiều vùng nông thôn hẻo lánh, biệt lập, khả năng tiếp cận các dịch vụ công như giáo dục, chăm sóc sức khỏe y tế còn thấp bởi sự thiếu hụt, khó khăn trong kết nối cơ sở hạ tầng (hạ tầng cứng gồm giao thông, thủy lợi; hạ tầng mềm gồm dịch vụ thông tin, khả năng truy cập internet tốc độ cao). Nhằm ứng phó với những thách thức trên), ý tưởng và các chương trình hành động “Làng thông minh”, đã được EU lồng ghép với một chiến lược phát triển trung và dài hạn nhằm phát triển kinh tế khu vực nông thôn. Các mô hình làng thông minh được thực hiện tại Liên minh châu Âu trong thời gian qua được phủ rộng ra nhiều lĩnh vực như: Hỗ trợ các doanh nghiệp và đổi mới sáng tạo trong khu vực nông thôn, phát triển hạ tầng, kỹ thuật số, băng thông rộng…  Quy trình thực hiện qua các bước: (1) Đánh giá bối cảnh, nhu cầu của địa phương; (2) Gắn kết các bên tham gia; (3) Thiết kế chiến lược; (4) Xây dựng các chương trình hành động và (5) Giám sát quá trình thực hiện.

    Mô hình “Làng kỹ thuật số” của Đức do Bộ Nội vụ và Thể thao vùng Rhineland-Palatinate (Đức) và Viện Fraunhofer (IESE) khởi xướng vào mùa hè năm 2015, kéo dài đến năm 2019, với kinh phí tính khoảng 4,5 triệu euro [2]. Mô hình tập trung vào một lối sống dựa trên sự tương trợ, hợp tác và ý thức sinh thái, thay vì chỉ là kỹ thuật số theo nghĩa công nghệ thông tin hiện đại. Những cộng đồng này nhấn mạnh vào sự bền vững, tránh cạnh tranh và thành kiến, đồng thời tổ chức sản xuất chung theo nguyên tắc hợp tác xã, tạo nên một cuộc sống hòa bình và có trách nhiệm với môi trường. 

    Mô hình “Làng thông minh” của Mouans-Sartoux (Pháp) cũng là một hình mẫu. Mouans-Sartoux là một thị trấn với hơn 10.000 cư dân, nằm ở khu vực trung tâm của khu vực Cannes, Grasse và Antibes với hơn 450.000 cư dân. Thách thức mà khu vực này phải đối mặt chính là tình trạng thiếu nguồn cung các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Chính vì vậy, sáng kiến làng thông minh của Mouans-Sartoux chính là ứng dụng các giải pháp kỹ thuật số nhằm cải thiện khả năng sản xuất, cung ứng các sản phẩm nông nghiệp bền vững. Một số giải pháp thông minh được đề ra: Tăng cường khả năng liên kết trong chuỗi cung ứng giữa các khu vực sản xuất nông nghiệp lân cận; Hỗ trợ tái định cư cho nông dân; Phát huy khả năng sản xuất của các hộ dân; Sử dụng các công cụ kỹ thuật số để cải thiện khả năng sản xuất, cung ứng lương thực. Các hoạt động cụ thể được tổ chức gồm: Tập huấn nâng cao nhận thức cho người dân và chính quyền địa phương về các kỹ năng sử dụng kỹ thuật số; Xây dựng trang web về thực phẩm địa phương; Xuất bản ấn phẩm công bố những kết quả dự án; Tổ chức các cuộc họp giữa các bên tham gia dự án nhằm tìm kiếm các giải pháp cho vấn đề cung ứng sản phẩm nông sản qua các ứng dụng điện tử, kỹ thuật số.

    2. Chương trình Ấn Độ kỹ thuật số

    Nằm ở lưu vực sông Ấn và sông Hằng, Ấn Độ là quốc gia có nền nông nghiệp lâu đời với quy mô thị trường ước đạt 372,94 tỉ USD vào cuối năm 2024, dự kiến ​​sẽ đạt 473,72 tỉ USD vào năm 2029. Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và việc làm ở Ấn Độ, với các sản phẩm chính như lúa, lúa mì, đậu, bông, mía, chè, và ngành chăn nuôi sữa hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, ngành này đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, suy thoái đất, thiếu nước, và chuỗi cung ứng không hiệu quả, khiến nhiều nông dân phải đối mặt với rủi ro. Các chính sách như trợ cấp, tín dụng nông nghiệp và chuyển đổi số đang được triển khai để tăng cường năng suất và tính bền vững cho nông nghiệp Ấn Độ. Trong đó, Chương trình Ấn Độ kỹ thuật số (Digital India) được Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi phát động vào năm 2015, với tầm nhìn “biến Ấn Độ thành một xã hội được trao quyền kỹ thuật số và nền kinh tế tri thức” [3], bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến, tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và kết nối internet ở khu vực nông thôn. Đây là một chương trình số hóa phức tạp và nhiều lớp do Nhà nước điều hành, liên quan đến nhiều khía cạnh - từ việc cung cấp kết nối internet ngay cả ở những vùng xa xôi nhất của đất nước thông qua mạng cáp quang, đến thúc đẩy thanh toán kỹ thuật số không dùng tiền mặt. 

Người dân trồng xoài ở phường Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp chỉ cần truy cập trên điện thoại

thông minh vào hệ thống quan trắc là biết các chỉ số về môi trường nước, độ ẩm của đất, độ mặn, độ pH

    Trong chương trình chuyển đổi số ở Ấn Độ, đối với lĩnh vực nông nghiệp, nội dung quan trọng nhất là xây dựng làng kỹ thuật số. Theo đó, các làng được chọn sẽ chuyển đổi sang Làng kỹ thuật số, ở đó, người dân sẽ được trang bị kiến thức về kỹ thuật số và thực hiện hầu hết các hoạt động của mình thông qua chế độ trực tuyến. Một số mô hình đã được triển khai như Làng thông minh sử dụng điện mặt trời Ashok Das, Làng kỹ thuật số Harisal. Làng Akodara nằm ở quận Sabarkantha của tỉnh Gujarat được gọi là Làng kỹ thuật số vào ngày 2/1/2015. Ngôi làng này được mệnh danh là ngôi làng kỹ thuật số đầu tiên của Ấn Độ và Làng không tiền mặt. Người dân ở Akodara sử dụng điện thoại di động để thanh toán các giao dịch mua hàng khác nhau của họ. Ngôi làng được trang bị Wi-Fi công cộng và mọi người sử dụng Wi-Fi cho các hoạt động trực tuyến khác nhau. Hay mô hình “Làng thông minh Mori” tại Đông Godavari là một dự án hợp tác giữa Trung tâm Đổi mới doanh nghiệp Garwood của Đại học Berkeley với Chính phủ Ấn Độ ở bang Andhra Pradesh, nhằm thiết kế mô hình “Làng thông minh” có tính mở. Các bước xây dựng mô hình này gồm: (1) Xác định các trở ngại, khó khăn của ngôi làng; (2) Tìm kiếm các giải pháp và cơ hội kinh doanh để có thể trao đổi với các công ty công nghệ về ý tưởng và giải pháp, (3) Hợp tác với dân làng để ứng dụng các giải pháp công nghệ. Đặc biệt, làng Akodara gần Ahmedabad vùng Tây Bắc Ấn Độ với khoảng 1.200 dân là một ngôi làng kỹ thuật số hoàn toàn. Số hóa đã thúc đẩy người dân sử dụng công nghệ trong giáo dục, tiếp cận tài chính ngân hàng hiện đại. Học sinh được sử dụng thiết bị nghe nhìn, máy tính, máy tính bảng và internet trong các trường học. Tất cả các giao dịch thông thường của ngân hàng được thực hiện bằng điện thoại di động thông qua ngân hàng trực tuyến…

    Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, Ấn Độ là hình mẫu trong lĩnh vực kỹ thuật số. Cách tiếp cận của Ấn Độ, kết hợp hạ tầng công nghệ tiên tiến và kỹ thuật số quy mô lớn, có thể được áp dụng tại các quốc gia khác đang tìm cách hiện đại hóa nền kinh tế.

    3. Liên hệ với Việt Nam

    Nghị quyết Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu... [5]. Nhận thức được những lợi ích to lớn của chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các văn bản định hướng chủ trương và chiến lược nhằm khai thác các cơ hội do chuyển đổi số mang lại; đặt chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn trong cấu trúc chung của nền kinh tế số, bắt nhịp với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 27/1/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030, nhấn mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được xác định là một nội dung rất quan trọng [4]. Hay Quyết định số 924/QĐ-TTg ngày 2/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng NTM, hướng tới NTM văn minh giai đoạn 2021-2025 chỉ rõ: “Chuyển đổi số trong xây dựng NTM để từng bước hình thành NTM thông minh, nâng cao hiệu quả hoạt động của cộng đồng, góp phần xây dựng NTM đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững” [1]. 

    Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Chính phủ, trong những năm gần đây, chuyển đổi số trong nông nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến nhất định. Đến năm 2022, cả nước có 34 khu nông nghiệp công nghệ cao được quy hoạch tại 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đặc biệt, có 6 khu nông nghiệp công nghệ cao quy mô lớn với diện tích trên 400 ha tại: TP. Hà Nội và các tỉnh, như: Thanh Hóa, Phú Yên, Hậu Giang, Bình Dương. Nhiều địa phương khác cũng đang thu hút doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp công nghệ cao. Đến hết năm 2022, cả nước có 12 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, được các địa phương công nhận; có 51 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận. Các tiến bộ về khoa học - công nghệ đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Mức độ tổn thất của nông sản giảm đáng kể, trong đó tổn thất của lúa gạo đã giảm xuống dưới 10% [6].

    Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cũng đã ban hành Quyết định số 969/QĐ-BNN-VPĐP ngày 16/3/2023 phê duyệt danh mục mô hình thí điểm do Trung ương chỉ đạo thuộc Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng NTM, hướng tới NTM thông minh giai đoạn 2021-2025 (đợt 1) [7]. Bộ cũng đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương xây dựng thí điểm 9 mô hình xã NTM thông minh ứng dụng chuyển đổi số trên cả nước, gồm: Mô hình xã NTM thông minh Tức Tranh (địa điểm thực hiện xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên); Mô hình xã NTM thông minh Giao Phong (địa điểm thực hiện xã Giao Phong, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định); Mô hình xã NTM thông minh Quảng Thọ (địa điểm thực hiện xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế); Mô hình xã NTM thông minh Hòa Đồng (địa điểm thực hiện xã Hòa Đồng, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên); Mô hình xã NTM thông minh Thoại Giang (địa điểm thực hiện xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; Mô hình xã NTM thông minh Mỹ Lộc (địa điểm thực hiện xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long); Mô hình xã thương mại điện tử Phúc Hòa (địa điểm thực hiện xã Phúc Hòa, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang); Mô hình xã thương mại điện tử Mỹ Xương (địa điểm thực hiện xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp); Mô hình xã thương mại điện tử Tân Mỹ Chánh (địa điểm thực hiện xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) [7]. Sau hơn hai năm thực hiện mô hình thí điểm xã NTM thông minh bước đầu đã gặt hái được những kết quả quan trọng.

    Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều rào cản lớn, từ hạ tầng công nghệ, nhận thức của người dân đến chính sách hỗ trợ và khả năng tiếp cận tài chính. Năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra trong quá trình chuyển đổi số và xây dựng xã NTM thông minh. Nhiều vùng còn khó khăn, chưa bảo đảm tiếp cận internet, chưa có nhiều thiết bị điện thoại thông minh. Trang thiết bị cho cán bộ, công chức xã còn hạn chế, cấu hình kỹ thuật thấp, lạc hậu, thời gian sử dụng quá lâu. Hệ thống logistic cho nông nghiệp quy mô nhỏ, manh mún, thiếu kết cấu hạ tầng mềm cho ứng dụng kỹ thuật số, thiếu các trung tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vườn ươm khởi nghiệp. Nhiều cơ sở dữ liệu của các ngành, địa phương chưa được số hóa hoặc đã số hóa nhưng còn phân tán, nhỏ lẻ, thiếu tính kết nối, liên thông, chia sẻ giữa các cấp, ngành… Những thách thức này đòi hỏi sự quan tâm và giải pháp từ nhiều phía để đảm bảo quá trình số hóa được triển khai hiệu quả và bền vững. Sự thành công từ quá trình chuyển đổi số nông thôn ở Ấn Độ đã khẳng định vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc đầu tư hạ tầng số, đầu tư các chương trình nâng cao tri thức số, tư duy số và kỹ năng số cho người dân sinh sống các ngôi làng kỹ thuật số. Hay bài học từ mô hình “Làng thông minh” của Liên minh châu Âu cho thấy, mặc dù điều kiện cơ sở hạ tầng và điều kiện về tự nhiên thiên nhiên của Việt Nam khác EU rất nhiều nên quá trình chuyển đổi số nông thôn ở Việt Nam rất khó để áp dụng hoàn toàn mô hình làng kỹ thuật số của EU. Tuy nhiên, nước ta có thể học hỏi một số kinh nghiệm từ mô hình này như cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ - thông tin để xây dựng và vận hành các nền tảng giao dịch trực tuyến, các chợ trực tuyến nhằm quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường, kinh doanh các sản phẩm của làng một cách rộng rãi và hiệu quả hơn. Đặc biệt, phải dựa vào dân, tạo được lòng tin của nhân dân và thuyết phục được nhân dân tham gia thì việc chuyển đổi số mới có thể thành công.

ThS. Bùi Văn Hợp

Viện Chính sách, Đổi mới và Khoa học Liên ngành

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 8/2025)

Tài liệu tham khảo

1. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 924/QĐ-TTg ngày 2/8/2022 phê duyệt chương trình chuyển đổi số trong xây dựng NTM, hướng tới NTM thông minh giai đoạn 2021-2025.

2. Digital Villages Germany. https://ec.europa.eu, truy cập ngày 20/8/2025. 

3. Digital India. 2019. “How Digital India will be Realized: Pillars of Digital India”. Digital India, June 9. https://digitalindia.gov.in/content/programme-pillars. [Google Scholar].

4. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 27/1/2021 phê duyệt Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.124-125.

6. Song Hà (2022), Việt Nam phát triển nông nghiệp công nghệ cao bền vững, truy cập từ http://quocphongthudo.vn/kinh-te/xay-dung-nong-thon-moi/viet-nam-phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-ben-vung.html.

7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quyết định số 969/QĐ-BNN-VPĐP ngày 16/3/2023 phê duyệt danh mục mô hình thí điểm do Trung ương chỉ đạo thuộc Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng NTM, hướng tới NTM thông minh giai đoạn 2021-2025 (đợt 1).

Ý kiến của bạn