04/09/2025
Ngày 4/9/2025, tại Hà Nội, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa phối hợp với Viện Kinh tế và Thể chế nông nghiệp cùng các chuyên gia khoa học đất tổ chức Tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ quản lý, chuyên gia tại Thành phố Hà Nội. Tham gia lớp tập huấn có đại diện các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường; đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh: Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Nghệ An; đại diện Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, Viện Cây lương thực và cây thực phẩm; đại diện Trường Đại học Nông - Lâm Bắc Giang, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế…
Phát biểu khai mạc lớp tập huấn, TS. Trần Thị Minh Thu, Phó Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng Nông hóa cho biết, Dự án “Hỗ trợ xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động về sức khỏe đất quốc gia” do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) tài trợ và đồng thực hiện được phê duyệt tại Quyết định số 605/QĐ-BNN- HTQT ngày 27/2/2024. Trong khuôn khổ Dự án, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa và Viện Kinh tế và Thể chế nông nghiệp được giao nhiệm vụ Tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý, chuyên gia về quản lý sức khỏe đất. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ quản lý, nghiên cứu viên, chuyên gia nông nghiệp, giảng viên đại học ngành nông lâm nghiệp. Qua đó, góp phần thúc đẩy thực hành canh tác bền vững, cải thiện sức khỏc đất, tăng năng suất cây trồng và hướng tới sự phát triển nông nghiệp bền vững.
Tham gia lớp tập huấn, các đại biểu đã được lắng nghe tham luận: Khái niệm sức khỏe đất và kinh nghiệm quốc tế trong cải thiện sức khỏe đất; chính sách quốc gia liên quan đến sức khỏe đất tại Việt Nam; thực trạng suy thoái đất tại Việt Nam và các chỉ số đánh giá; thực hành canh tác thân thiện với sức khỏe đất; Chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia về cải thiện sức khỏe đất tại Việt Nam…
Trình bày Chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia về cải thiện sức khỏe đất tại Việt Nam, ông Đỗ Huy Thiệp, Phó Giám đốc Viện kinh tế và Thể chế Nông nghiệp cho hay, sức khỏe đất hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng ở hầu hết các nhóm tiêu chí, tác động trực tiếp đến sức khỏe cây trồng vật nuôi, từ đó tác động đến sức khỏe con người. Cụ thể, việc suy giảm sức khỏe đất sẽ: (i) Làm giảm năng suất cây trồng, tăng chi phí (đất bị thoái hóa làm giảm khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, dẫn đến giảm năng suất và chất lượng nông sản, mất an ninh lương thực; tăng chi phí, giảm thu nhập của người dân); (ii) Tác động tiêu cực đến môi trường (đất bị xói mòn, ô nhiễm đất kéo theo ô nhiễm nguồn nước, giảm khả năng tích lũy các-bon; suy giảm đa dạng sinh học); (iii) Ảnh hưởng đến sức khỏe con người (ô nhiễm đất và nước do suy giảm sức khỏe đất là mầm bệnh nguy hiểm cho con người, đặc biệt là bệnh về tiêu hóa, thần kinh và ung thư. Nguyên nhân gây ra suy giảm sức khỏe đất rất đa dạng, không chỉ đến từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, trong khi chính sách quản lý sức khỏe đất chưa toàn diện, chưa giải quyết được tận gốc vấn đề; công tác nghiên cứu và đào tạo sức khỏe đất còn nhiều thách thức…
Cũng theo ông Đỗ Huy Thiệp, nhận thức được vai trò quan trọng của sức khỏe đất, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ và cải thiện nguồn tài nguyên này, đồng thời khuyến khích các thực hành nông nghiệp bền vững. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao và Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Đảng đã nhấn mạnh việc hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát ô nhiễm, ngăn ngừa suy thoái và ứng dụng khoa học công nghệ trong đánh giá, giám sát chất lượng đất. Các văn bản pháp lý quan trọng như Luật Đất đai năm 2024, Luật Trồng trọt năm 2018, Luật BVMT năm 2020, cùng nhiều Nghị định, Quyết định của Chính phủ và các Bộ/ngành đã tạo ra một hành lang pháp lý nhất định. Điển hình là Quyết định số 150/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu bảo vệ, cải thiện tài nguyên đất và nước. Gần đây nhất, Quyết định số 3458/QĐ-BNN-BVTV ngày 19/12/2024 của Bộ NN&PTNT phê duyệt Đề án Nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xem là văn bản chuyên biệt có tính pháp lý cao nhất hiện nay về sức khỏe đất. Tuy nhiên, một thực tế là các quy định này còn nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều Bộ, ngành như Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, dẫn đến sự chồng chéo, thiếu đồng bộ trong triển khai và giám sát.
Toàn cảnh lớp tập huấn
Dù đã có những nỗ lực nhất định, trong tương lai, việc bảo vệ, phục hồi sức khỏe đất tại Việt Nam vẫn đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức. Về mặt tích cực, có nhiều yếu tố tạo cơ hội để cải thiện tình hình, đó là cam kết chính trị mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh, giảm phát thải (cam kết Net-Zero vào năm 2050 tại COP26) và phát triển nông nghiệp bền vững. Đây là nền tảng chính sách thuận lợi cho các hoạt động bảo vệ sức khỏe đất. Bên cạnh đó, nhu cầu toàn cầu và trong nước đối với các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, sản xuất theo hướng bền vững ngày càng tăng, tạo động lực kinh tế cho nông dân chuyển đổi sang phương thức canh tác thân thiện với đất. Sự phát triển của thị trường tín chỉ các-bon trên toàn cầu và tại Việt Nam cũng mở ra nguồn tài chính tiềm năng cho giải pháp nông nghiệp bền vững, giúp tăng cường hấp thụ các-bon của đất như giảm phân bón, thuốc trừ sâu, che phủ đất, nông lâm kết hợp, sử dụng phân hữu cơ. Đồng thời, những tiến bộ khoa học công nghệ như IoT, AI, GIS đang mang lại công cụ mạnh mẽ để theo dõi chất lượng đất, tối ưu hóa sản xuất nông nghiệp và quản lý tài nguyên đất hiệu quả hơn. Sự tham gia ngày càng chủ động của khối tư nhân vào việc đầu tư vào nông nghiệp bền vững, phát triển các mô hình canh tác thân thiện với sức khỏe đất cũng là một tín hiệu đáng mừng.
Ông Đỗ Huy Thiệp nhấn mạnh, với những cơ hội và thách thức đan xen, thực trạng suy giảm sức khỏe đất cùng những tác động đa chiều đến kinh tế, xã hội, môi trường cho thấy việc xây dựng và triển khai một Chiến lược Sức khỏe đất quốc gia toàn diện là yêu cầu cấp bách, mang tính sống còn đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Chiến lược vừa kế thừa, vừa mở rộng phạm vi của Đề án Nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đồng thời bổ sung các thông tin liên quan, cập nhật những thay đổi về bộ máy quản lý nhà nước cấp Trung ương cũng như thay đổi về tổ chức đơn vị hành chính, chính quyền địa phương. Dựa trên cách tiếp cận “Một sức khỏe” (One Health), Chiến lược sẽ nhìn nhận mối liên hệ mật thiết và không thể tách rời giữa sức khỏe của đất, sức khỏe của hệ sinh thái, sức khỏe cây trồng, vật nuôi và sức khỏe con người. Quan điểm xuyên suốt của Chiến lược là: (i) Bảo vệ và phục hồi sức khỏe đất là nền tảng của một hệ sinh thái bền vững, đảm bảo quá trình phát triển nông nghiệp có trách nhiệm, hiệu quả và bền vững về kinh tế - xã hội - môi trường theo hướng sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải các-bon thấp, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; (ii) Bảo vệ sức khỏe đất là một phần quan trọng của BVMT, từ đó bảo vệ sức khỏe nhân dân và cần được ưu tiên trong các quyết định phát triển; không đánh đổi sức khỏe đất dài hạn lấy các lợi ích kinh tế; (iii) Bảo vệ sức khỏe đất là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn dân cũng như mỗi người sử dụng đất. Tăng cường huy động nguồn lực trong xã hội kết hợp với tăng chi ngân sách để bảo vệ và phục hồi sức khỏe đất. Trên cơ sở quan điểm nhất quán, Chiến lược cũng đặt ra một số giải pháp thực hiện bao gồm: (i) Về quản lý Nhà nước: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về sức khỏe đất thông qua hình thành cơ sở dữ liệu về sức khỏe đất hoàn thiện, chi tiết và kịp thời; (ii) Về nhận thức và nhân lực: Nâng cao nhận thức, chất lượng nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn và truyền thông; (iii) Về kỹ thuật: Áp dụng các giải pháp kỹ thuật tiên tiến trong canh tác và quản lý đất để bảo vệ và phục hồi sức khỏe đất; (iv) Đối với vấn đề tài chính: Đảm bảo nguồn tài chính đầy đủ và bền vững để thực hiện các giải pháp bảo vệ và phục hồi sức khỏe đất.
Trong phần thảo luận, các đại biểu đã tập trung vào việc xác định vấn đề và đề xuất giải pháp phục hồi suy thoái đất hoặc cải thiện sức khỏe đất. Trên cơ sở phân tích hiện trạng thoái hóa đất ở Việt Nam (diện tích đất bị thoái hóa của cả nước chiếm khoảng 11,8 triệu ha), bà Cao Việt Hà, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã chỉ ra những thách thức với sức khỏe đất ỏ từng vùng, miền và khu vực hiện nay, trong đó, các loại đất phần lớn bị suy thoái độ phì nhiêu do quản lý dinh dưỡng đất kém hiệu quả. Tại khu vực đồi núi bị đe dọa bới xói mòn; vùng đồng bằng, đất thường chua do mực nước ngầm phân bố nông; vùng đô thị; vùng thâm canh, đất thoái hóa do hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật và phân bón; vùng ven biển đất bị thoái hóa do ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp và sinh hoạt; vùng ven biển thì bị nhiễm mặn và phèn… Từ đó, bà Cao Việt Hà đề xuất một số giải pháp kỹ thuật canh tác nhằm duy trì và nâng cao sức khỏe đất như: (i) Giải pháp kỹ thuật quản lý dinh dưỡng đất phòng chống suy giảm độ phì nhiêu (biện pháp kỹ thuật sử dụng phân bón; biện pháp kỹ thuật điều tiết pH đất và các biện pháp canh tác khác như luân canh cây trồng cạn và cây trồng nước để cải thiện kết cấu đất cũng như hệ ô xy hóa khử trong đất; trồng xen các cây họ đậu dưới tán cây lâu năm để cải thiện kết cấu đất, hạn chế cỏ dại, tăng hữu cơ cho đất; sử dụng chế phẩm vi sinh vật để tăng hàm lượng vi sinh hữu ích trong đất; luân canh xen canh hợp lý cây trồng hàng năm giúp tăng đa dạng sinh học, cải thiện chất đất); (ii) Giải pháp hạn chế khô hạn (xây công trình giữ nước - hồ đập nhân tạo; làm ruộng bậc thang; xây dựng các hệ thống cấp nước, trang bị thiết bị tươi tiêu hợp lý; dung hệ thống đai chắn gió ngăn cản quá trình bốc hơi nước; sử dụng biện pháp canh tác ngăn cản bốc hơi nước vật lý; sử dụn các vật liệu có khả năng siêu hấp phụ nước); (iii) Nâng cao sức khỏe đất phèn (bón vôi để nâng pH đất; bổ sung phân hữu cơ và vi sinh; cải tạo hệ thống thoát nước; trồng cây chịu phèn, cây cải tạo đất; luân canh cây trồng và sử dụng giống cây chịu được phèn; không đốt tàn dư thực vật; (iv) Cải tạo và nâng cao sức khỏe đất mặn (rửa mặn bằng nước ngọt; bón phân hữu cơ; cải tạo hệ thống thủy lợi; trồng cây chịu mặn và cải tạo đất; luân canh và xen canh cây trồng; sử dụng chế phẩm sinh học); (v) Phương pháp phòng chống ô nhiễm đất (điều tra, phân tích đất, xác định nguồn gây ô nhiễm; loại bỏ nguồn gây ô nhiễm; làm sạch đất; thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các quy định của pháp luật về bảo vệ sức khỏe đất…).
Theo PGS.TS. Trần Thị Tuyết Thu, Bộ môn Tài nguyên và Môi trường đất, Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, có nhiều phương pháp xác định suy giảm sức khỏe đất, như: Nhóm chỉ thị quan trắc và phân tích định tính; Nhóm chỉ thị phân tích định lượng; Nhóm chỉ thị sinh học đất. Trong đó phương pháp quan trọng nhất thông qua đánh giá sức khỏe cây trồng, năng suất thu hoạch, một số chỉ tiêu sức khỏe đất, chất lượng môi trường và dịch vụ hệ sinh thái. Vì vậy, để xử lý, cải tạo, phục hồi sức khỏe đất, chìa khóa quan trọng nhất là phục hồi chất hữu cơ, đa dạng sinh học, duy trì cân bằng dinh dưỡng, khả năng dự trữ nước trong đất và giảm tích tụ độc chất. Căn cứ vào các biểu hiện suy thoái sức khỏe đất (mặn hóa, phèn hóa, axit hóa, suy thoái chất hữu cơ, chặt hóa, ong hóa, mất cân bằng dinh dưỡng, độc hóa, bệnh hại… để có những giải pháp cụ thể, đảm bảo hiệu quả.
Thu Hằng