28/10/2025
Sáng 28/10/2025, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội nghe Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.

Quốc hội dành cả ngày 28/10 thảo luận về Luật Bảo vệ môi trường (Ảnh: Quốc hội)
Nhiều kết quả tích cực, quan trọng
Tại phiên họp, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh khẳng định, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Cụ thể như:
Thứ nhất, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật BVMT, trong đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành hơn 30 văn bản, qua đó đã cơ bản thể chế và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu, quán triệt nguyên tắc môi trường là một trong ba trụ cột “Kinh tế - Xã hội - Môi trường” để phát triển bền vững, chuyển mạnh sang cơ chế quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội.
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Các chiến lược, quy hoạch quốc gia quan trọng được xây dựng và phê duyệt, bao gồm Chiến lược BVMT quốc gia và lần đầu tiên xây dựng Quy hoạch BVMT quốc gia. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường tiếp tục được rà soát, cập nhật, tiệm cận với trình độ quốc tế.
Thứ hai, công tác BVMT đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu trong ASEAN. Có 03/05 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025, gồm: tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ che phủ rừng.
Ngân sách nhà nước (NSNN) chi cho sự nghiệp môi trường được bảo đảm không thấp hơn 1% tổng chi NSNN và tăng qua các năm (năm 2024 đạt 1,12%). Nguồn lực xã hội hóa và đầu tư từ doanh nghiệp cho BVMT cũng có những chuyển biến tích cực.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành phiên họp (Ảnh: Quốc hội)
Thứ ba, các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường.
Nhiều dự án lớn được kiểm soát chặt chẽ về BVMT đi vào vận hành chính thức, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Hoạt động đầu tư lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục truyền số liệu trực tiếp về cơ quan quản lý nhà nước đã được quan tâm, đầu tư. Tỷ lệ khu công nghiệp, cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng so với giai đoạn trước.
Thứ tư, công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, tỷ lệ thu gom, xử lý CTRSH tăng dần qua các năm, đến hết năm 2024 đạt 97,26% ở đô thị, 80,5% ở nông thôn, giảm hình thức chôn lấp; việc tái chế, tái sử dụng, tận dụng giá trị tài nguyên từ chất thải được tăng cường thông qua các hình thức như đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng, tận dụng nhiệt dư từ đốt rác, sản xuất xi măng để phát điện; đã giảm mạnh lượng tồn đọng tro, xỉ, thạch cao phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện, phân bón, hóa chất.
Các địa phương đã và đang từng bước xây dựng hạ tầng xử lý chất thải với công nghệ tái chế, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng thay cho chôn lấp CTRSH; áp dụng công nghệ mới, tiên tiến như đốt có thu hồi năng lượng và phát điện... để xử lý CTRSH sau phân loại, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên của chất thải, góp phần phát triển nền kinh tế tuần hoàn; thí điểm tính giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý dựa trên khối lượng, thể tích.
Thứ năm, tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường đã được ngăn chặn, chất lượng môi trường từng bước cải thiện, đặc biệt là chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt một số lưu vực sông chính, nước biển ven bờ, nước dưới đất.
Thứ sáu, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu có chuyển biến tích cực; khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội được nâng cao, bảo đảm sinh kế bền vững; kiểm kê khí nhà kính tại các doanh nghiệp đã được triển khai thực hiện; việc chuyển đổi xanh trong các ngành, lĩnh vực hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được thúc đẩy mạnh mẽ; hành lang pháp lý về phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam đã và đang được hình thành. Về ứng phó biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều giải pháp công trình và phi công trình đang được triển khai.

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh (Ảnh: Quốc hội)
Phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa
Đề cập về nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, hoàn thành đến cuối năm 2026, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Đoàn giám sát cho rằng, cần tổng kết, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật BVMT năm 2020, trình Quốc hội xem xét, thông qua đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI.
Trước tiên, xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật này tại Kỳ họp thứ 10 để góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp; đồng thời sửa đổi quy định về lộ trình, thời gian áp dụng đối với các chính sách liên quan đến quản lý CTRSH cho phù hợp yêu cầu thực tế. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan như thuế, phí BVMT, NSNN, đầu tư...
Mặt khác, cần tổ chức rà soát, đánh giá và cập nhật, điều chỉnh (trong trường hợp cần thiết) các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu để đáp ứng yêu cầu “mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới”, tăng trưởng kinh tế 2 con số trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc xuyên suốt không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế đơn thuần, tôn trọng quy luật tự nhiên...
Ngoài ra, cần tổ chức thiết lập và vận hành thí điểm Sàn giao dịch tín chỉ các-bon, bước đầu hình thành và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam; quy định tỷ lệ kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, lượng tín chỉ các-bon tối thiểu được giữ lại để thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) khi trao đổi, chuyển giao ra quốc tế phù hợp với từng giai đoạn và tình hình thực tế trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia.
Đề cập về nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Đoàn giám sát cho rằng, các Bộ ngành cần phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường; dự báo sớm tác động của biến đổi khí hậu; khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường có trọng tâm, trọng điểm. Bên cạnh đó, tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; hoàn thiện thể chế, chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngoài ra, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu; Tăng cường năng lực tổ chức bộ máy quản lý về BVMT.
Giai đoạn 2022 - 2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thanh tra 812 cơ sở, xử phạt 348 cơ sở với tổng số tiền 96,7 tỷ đồng. Các địa phương đã xử phạt 14.863 vụ với tổng số tiền 643 tỷ đồng. Kiểm toán nhà nước đã thực hiện 12 cuộc kiểm toán, chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý môi trường. Bên cạnh đó, lực lượng Cảnh sát môi trường đã tích cực điều tra, phát hiện, khởi tố 2.336 vụ/2.935 bị can.
Theo nongnghiepmoitruong.vn