15/07/2025
Hoạt động khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng (VLXD) ở Việt Nam có vai trò quan trọng trong xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, là một trong những lĩnh vực công nghiệp chủ lực, đóng góp lớn vào GDP của đất nước. Thời gian vừa qua, việc quản lý, định hướng phát triển VLXD đã được Nhà nước quy định tại nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên, quá trình khai thác cũng đặt ra nhiều thách thức liên quan đến môi trường, pháp lý và quy hoạch.
Để khắc phục tình trạng trên, trong giai đoạn hiện nay, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý phát triển VLXD là cần thiết, tạo sự đồng bộ trong công tác quản lý, góp phần hoàn thiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với lĩnh vực VLXD theo hướng phát triển nhanh, bền vững, phù hợp với điều kiện trong nước và xu hướng của thế giới.
1.Các quy định của pháp luật về địa chất, khoáng sản
Năm 1989, Việt Nam áp dụng Pháp lệnh về Tài nguyên khoáng sản, tiếp theo là 3 thế hệ Luật Khoáng sản (Luật Khoáng sản năm 1996, Luật Khoáng sản được sửa đổi bổ sung vào năm 2005, Luật Khoáng sản năm 2010). Theo từng giai đoạn phát triển của đất nước, pháp luật về khoáng sản đã điều chỉnh phù hợp và có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chính sách quan trọng của các Luật trước đây vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt, Luật Khoáng sản năm 2010 đã thể hiện rõ quan điểm khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và BVMT làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư. Tuy nhiên, do bối cảnh thay đổi, cần điều chỉnh, bổ sung một số nội dung. Trên cơ sở đánh giá kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế, những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thi hành Luật Khoáng sản năm 2010, Chính phủ đã xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Địa chất và khoáng sản năm 2024 (Luật ĐC&KS) tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV và có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 136/2025/NĐ- CP ngày 12 tháng 6 năm 2025 quy định phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường và Nghị định số 193/2025/NĐ-CP ngày 2/7/2025 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ĐC&KS.
Luật ĐC&KS được ban hành với nhiều chính sách đổi mới, quan trọng, tạo hành lang pháp lý rõ ràng trong quản lý nhà nước và thực hiện các hoạt động về địa chất, khoáng sản. Đặc biệt, Luật đã xác lập rõ các mục tiêu, quan điểm trong các nhóm chính sách về: (i) Phân nhóm khoáng sản theo công dụng và mục đích quản lý để có cách thức quản lý phù hợp với từng nhóm, từng loại khoáng sản khác nhau; (ii) Tăng cường phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương; (iii) Cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động khoáng sản; (iv) Hoàn thiện các quy định nhằm đẩy mạnh công tác đấu giá quyền khai thác khoáng sản, hạn chế tối đa việc cấp phép không qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản; (v) Hoàn thiện quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo hướng tính, thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế, bảo đảm tính công bằng, giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp; (vi) Bổ sung, hoàn thiện các quy định về thực hiện dự án đầu tư trong khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia. Trong đó, có 4 nhóm chính sách đổi mới mang tính đột phá góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và khơi thông điểm nghẽn, huy động hiệu quả nguồn lực khoáng sản cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), cụ thể:
(1) Phân nhóm khoáng sản: Luật đã phân loại khoáng sản thành 4 nhóm để có cách tiếp cận phù hợp từ khâu điều tra địa chất về khoáng sản, quy hoạch khoáng sản đến cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản, cho phép thu hồi khoáng sản, đóng cửa mỏ khoáng sản, gắn với việc phân cấp, phân quyền trong quản lý hoạt động địa chất, khoáng sản.
(2) Phân cấp, phân quyền: Luật ĐC&KS và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phân cấp, phân quyền triệt để cho chính quyền địa phương thực hiện thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản đối với hầu hết các loại khoáng sản; cấp Trung ương chỉ thực hiện thẩm quyền về quy hoạch khoáng sản nhóm I, nhóm II và cấp giấy phép hoạt động khoáng sản đối với khoáng sản nhóm I quy mô lớn. Luật cũng đã giao cho chính quyền địa phương tổ chức việc kiểm soát, giám sát mọi hoạt động khoáng sản, thu hồi khoáng sản trên địa bàn (bao gồm cả khoáng sản nhóm I do cơ quan Trung ương cấp phép).
2. Một số thay đổi về phân quyền, phân cấp sau khi ban hành Luật
Mặc dù, Luật ĐC&KS đã cơ bản giải quyết những vướng mắc, bất cập của Luật Khoáng sản năm 2010, tuy nhiên sau khi được ban hành, có những thay đổi liên quan đến: (i) Phân quyền, phân cấp theo quy định tại Nghị định số 136/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ quy định phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường; (ii) Các yêu cầu cấp thiết để đáp ứng nguồn nguyên liệu cho các dự án, công trình quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công, dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư. Theo đó, Luật ĐC&KS và các Luật khác có liên quan chưa xử lý được các vấn đề sau: (1) Chưa có đầy đủ các cơ chế đặc thù để giải quyết triệt để tình trạng khó khăn, khan hiếm về khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, vật liệu san lấp phục vụ xây dựng các dự án, công trình quan trọng quốc gia; dự án đầu tư khẩn cấp, cấp bách do cấp có thẩm quyền; (2) Chưa quy định đủ tiêu chí khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản để đáp ứng yêu cầu giải phóng mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực khoáng sản cho phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới; (3) Chưa có đầy đủ cơ chế để xử lý khi có sự chồng lấn giữa quy hoạch khoáng sản với các quy hoạch khác.
3. Đề xuất giải pháp phát triển hoạt động khai thác khoáng sản làm VLXD trong giai đoạn mới
Để phát triển ngành Vật liệu xây dựng theo hướng bền vững, cần kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp từ cấp chính sách, quản lý đến công nghệ và thói quen tiêu dùng. Có thể chia thành các nhóm giải pháp chính sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách: Ban hành tiêu chuẩn xanh cho vật liệu xây dựng (VLXD), gắn với yêu cầu tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính và kinh tế tuần hoàn; Ưu đãi thuế, tín dụng xanh cho doanh nghiệp sản xuất VLXD thân thiện môi trường; Quy định tỷ lệ bắt buộc sử dụng VLXD tái chế, vật liệu không nung trong các công trình công; Lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững vào quy hoạch ngành VLXD và chiến lược xây dựng quốc gia.
Thứ hai, phát triển công nghệ và sản phẩm: Khuyến khích đổi mới công nghệ sản xuất: sử dụng lò nung tiết kiệm năng lượng, thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng sinh khối hoặc chất thải tái chế. Đa dạng hóa sản phẩm VLXD bền vững: gạch không nung, bê tông xanh (sử dụng tro bay, xỉ lò cao), kính tiết kiệm năng lượng, vật liệu cách nhiệt sinh học, vật liệu thông minh. Ứng dụng công nghệ số và AI để tối ưu quy trình sản xuất, giảm hao phí năng lượng. Tăng cường nghiên cứu và hợp tác quốc tế để tiếp cận công nghệ VLXD thế hệ mới.
Thứ ba, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn: Tái chế chất thải xây dựng thành cát nhân tạo, gạch, bê tông tái chế. Sử dụng phụ phẩm công nghiệp (tro bay, xỉ than, bùn đỏ alumin, thạch cao FGD…) để sản xuất VLXD. Tận dụng chất thải nhựa làm vật liệu composite trong xây dựng.
Thứ tư, thay đổi mô hình tiêu dùng và xây dựng: Khuyến khích công trình xanh: sử dụng VLXD bền vững làm tiêu chí trong chứng nhận công trình (LEED, Lotus, EDGE).Nâng cao nhận thức cộng đồng và chủ đầu tư về lợi ích dài hạn của VLXD bền vững (giảm chi phí vận hành, nâng giá trị công trình). Thúc đẩy kiến trúc sinh thái: thiết kế tối ưu chiếu sáng tự nhiên, thông gió, cách nhiệt kết hợp với VLXD thân thiện môi trường.
Thứ năm, quản lý và giám sát chặt chẽ: Kiểm soát khai thác tài nguyên (đá, cát, đất sét…) theo hướng tiết kiệm, tránh khai thác tràn lan. Thiết lập hệ thống chứng nhận, nhãn xanh cho VLXD và công trình. Giám sát phát thải CO₂ của doanh nghiệp VLXD để đảm bảo cam kết Net Zero 2050.
Châu Loan